Tiếng Cười Trong Bóng Tối

Chưa có ai đánh giá truyện này!
Tác Giả: Đề Cử
Tình Trạng: Hoàn Thành
Tiếng cười trong bóng tối xoay quanh chuyện của một nhà phê bình nghệ thuật đứng tuổi, giàu có tên là Bruno Krechmar. Ông là hình mẫu thành đạt mà nhiều người trong xã hội hướng tới. Nhưng trong những …
Xem Thêm

Chương 9
Tây Berlin, một sáng tháng Năm. Những người đội mũ lưỡi trai trắng đang quét dọn đường phố. Kẻ nào đã vứt những đôi giày da bóng cũ trong rãnh nước đây? Chim sẻ ríu rít trên đám dây thường xuân. Một chiếc xe tải chạy điện chở sữa đang lăn êm mượt như kem trên bốn chiếc bánh căng tròn. Mặt trời chói chang chiếu vào ô cửa kính tầng thượng trên vòm mái nghiêng lớp ngói màu xanh lá cây. Bầu không khí tươi mới trong trẻo hãy còn chưa quen với tiếng còi xe ở xa; nó nhẹ nhàng thấm lấy mọi âm thanh và mang chúng đi như những vật quý giá dễ vỡ. Trong khu vườn trước nhà những cây đinh hương Ba Tư đang nở hoa. Bất kể hơi lạnh buổi sớm, đàn bướm trắng đã dập dờn bay quanh như ở một khu vườn quê. Tất cả mọi thứ đó vây lấy Albinus lúc ông bước ra khỏi ngôi nhà đã ở lại đêm trước.

Ông cảm thấy một nỗi bất an âm ỉ. Ông đói bụng, ông chưa cạo râu hay tắm rửa; chiếc sơ mi mặc từ hôm qua chạm vào da làm ông cáu tiết. Ông cảm thấy hoàn toàn kiệt sức - và chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Đêm qua là đêm ông hằng mơ ước suốt bao năm. Cái cách cô khép hai xương bả vai và kêu rừ rừ khi ông lần đầu hôn tấm lưng mịn như tơ của cô cho ông biết rằng ông sẽ đạt được điều ông mong muốn, và điều ông mong muốn không phải là cơn ớn lạnh của sự trong trắng. Cũng như trong trí tưởng tượng điên rồ nhất của ông, mọi thứ đều được phép; tình yêu đoan trang, giới hạn tiết hạnh, điều ít quen thuộc trong thế giới tự do mới mẻ này như những con gấu trắng ở Honolulu.

Sự lõα ɭồ của cô tự nhiên như thể cô vẫn có thói quen chạy dọc bãi biển trong những giấc mơ của ông. Có nét gì đó kỳ tài đến mê mẩn trong cách cô làm chuyện chăn gối. Và sau đó cô sẽ chuồn mất, đi lại tung tăng quanh phòng, lắc cặp hông thiếu nữ của mình và nhấm nháp miếng bánh mì khô còn lại sau bữa tối.

Cô rơi vào giấc ngủ khá bất chợt, cứ như cô dừng lại giữa một câu nói, lúc ánh đèn điện bắt đầu nhuộm thành màu vàng của phòng giam tử tù và ô cửa sổ thành màu xanh ma quái. Ông đi vào nhà tắm, nhưng chỉ làm chảy ra được từ vòi vài giọt nước màu gỉ sắt. Ông thở dài, dùng hai ngón tay cắp một miếng bọt biển bị bỏ quên ra khỏi bồn tắm, rón rén thả nó xuống, kiểm tra miếng xà phòng màu hồng trơn tuột mà nghĩ đến việc phải dạy Margot về quy tắc vệ sinh. Ông mặc quần áo trong khi hai hàm răng va lập cập, rồi ông kéo chăn lông phủ lên người Margot đang ngủ ngon lành, hôn mái tóc sẫm màu rối bù ấm nóng của cô, để lại trên bàn một lá thư ngắn viết bằng bút chì và nhẹ nhàng bước ra ngoài.

Bây giờ đây, khi dạo bước dưới ánh nắng mặt trời êm dịu, ông nhận ra giờ đền tội sắp đến. Khi thấy lại tòa nhà nơi ông sống bao năm với Elisabeth, khi đi lên bằng chiếc thang máy mà tám năm trước từng chở cô y tá bế đứa con gái ông, cùng với vợ ông, thật nhợt nhạt nhưng hạnh phúc, và khi đứng trước cánh cửa nơi cái tên uyên bác của ông khoan thai phát ra ánh sáng lập lòe, Alnibus gần như đã quyết sẽ không lặp lại chuyện đêm trước, giá như có một phép thần xảy ra. Ông tin chắc rằng nếu Elisabeth chưa đọc lá thư đó thì ông có thể bằng cách nào đó giải thích được việc vắng nhà - ông có thể nói rằng ông thử hút chơi thuốc phiện ở nhà ông họa sĩ Nhật vốn từng đến ăn tối với họ - lời giải thích này nghe hoàn toàn hợp lý.

Nhưng giờ đây ông phải mở cánh cửa này ra, phải bước vào và phải nhìn thấy... Ông sẽ thấy gì đây?... Hay có lẽ tốt nhất là không nên vào - cứ để nguyên mọi thứ như thế, rồi bỏ trốn, biến đi luôn?

Bỗng nhiên ông nhớ lại hồi Thế chiến, ông cố bắt mình không cúi lưng quá thấp khi rời khỏi chỗ nấp.

Ông bất động đứng trong sảnh, lắng nghe. Không một tiếng động. Bình thường vào giờ này buổi sớm, căn hộ tràn ngập âm thanh: ở đâu đó phải có tiếng nước chảy, tiếng cô bảo mẫu lớn giọng với Irma, tiếng cô hầu làm bát đĩa kêu lanh canh trong phòng ăn... Không một tiếng động nào! Chiếc ô của Elisabeth dựng ở góc nhà. Ông cố tìm thấy từ đó đôi chút an ủi. Chính ngay lúc này, khi ông vẫn đang đứng ở đó, cô hầu Frieda không đeo tạp dề xuất hiện từ hành lang, chằm chằm nhìn ông rồi thê thảm nói:

"Ôi, thưa ông, cả nhà bỏ đi tối qua rồi."

"Đi đâu?" Albinus hỏi mà không nhìn cô ta.

Cô ta kể cho ông mọi chuyện. Cô nói nhanh và to hơn bình thường. Rồi cô òa khóc nức nở khi đỡ lấy mũ và ba toong của ông.

"Ông uống chút cà phê chứ?" cô rền rĩ.

Sự bừa bộn trong phòng ngủ tự nó kể ra câu chuyện. Chiếc váy dạ hội của vợ ông nằm trên giường. Một ngăn tủ com mốt bị kéo mở toang. Bức chân dung nhỏ của ông bố vợ quá cố biến mất khỏi chiếc bàn. Góc tấm thảm bị lật lên. Albinus lật nó xuống lại rồi lặng lẽ đi vào phòng làm việc. Vài lá thư đã mở nằm trên bàn. À, nó đây rồi - nét chữ mới trẻ con làm sao! Sai chính tả, là sai chính tả! Thư của nhà Dreyer mời ăn trưa. Chu đáo thật. Một lá thư ngắn của Rex. Hóa đơn của nha sĩ. Tuyệt vời.

Hai giờ sau Paul xuất hiện. Mình thấy cậu ta râu cạo vụng về. Trên gò má căng nính của Paul có miếng băng đen dán chéo.

"Tôi đến lấy đồ đạc," ông nói lúc đi ngang qua.

Albinus vừa đi theo Paul vừa rung những đồng xu trong túi quần kêu leng keng và lặng lẽ quan sát, trong khi Paul cùng Frieda hối hả xếp đồ vào rương, cứ như họ đang vội vã để bắt kịp tàu.

"Đừng quên cái ô," Albinus lơ đãng nói.

Rồi ông lại đi theo họ và việc xếp đồ được lặp lại trong phòng trẻ. Trong phòng của cô bảo mẫu, một cái va li nằm đó sẵn sàng. Họ mang cả nó đi.

"Paul, cho tôi nói một câu thôi," Albinus lầm rầm, và ông hắng giọng rồi đi vào phòng làm việc. Paul bước theo và đứng cạnh cửa sổ.

"Đúng là một bi kịch," Alibinus nói.

"Hãy để tôi nói với anh một điều," cuối cùng Paul thét lên, trong khi vẫn nhìn chăm chăm qua cửa sổ. "Nếu chị Elisabeth sống qua được cú sốc này thì đó là may mắn quá chừng đấy. Chị ấy..."

Paul ngừng nói. Cái hình chữ thập trên má ông giần giật chạy lên chạy xuống.

"Chị ấy như một xác chết, đúng như thế. Anh đã... Anh là... Anh quả thực là một tên vô lại, thưa anh, hoàn toàn vô lại."

"Cậu có hơi khiếm nhã không đấy?" Albinus vừa hỏi vừa cố mỉm cười.

"Thật kinh khủng!" Paul hét lên, giờ mới nhìn vào ông anh rể lần đầu. "Anh kiếm được cô ta ở đâu? Làm sao con điếm đó lại dám viết thư cho anh?"

"Từ từ, từ từ nào," Albinus nói và liếʍ môi.

"Tôi sẽ cho anh ăn đòn. Tôi thề đấy!" Paul hét còn to hơn nữa.

"Hãy nhớ là Frieda có thể nghe rõ từng từ đấy," Albinus thì thầm.

"Anh có trả lời tôi không?" Paul cố nắm lấy ve áo khoác của ông, nhưng Albinus đập vào tay Paul và nở một nụ cười yếu ớt.

"Tôi không để bị tra hỏi đâu," ông thì thầm. "Toàn bộ chuyện này khá đau lòng. Cậu không thể nghĩ được đây chỉ là một sự hiểu nhầm thôi sao? Thử giả sử..."

"Anh nói dối!" Paul gầm lên, nện ghế xuống sàn nhà, "đồ đểu cáng! Tôi vừa mới đi gặp cô ta. Một con đĩ ti tiện đáng đi trại cải tạo. Tôi biết là anh sẽ nói dối, đồ đểu cáng. Sao anh có thể làm thế? Đây không phải là sự đồ bại đơn thuần, đây là..."

"Thế là đủ rồi," Albinus cắt ngang bằng giọng gần như không thể nghe được.

Một chiếc xe tải đi ngang qua, khung kính kêu lanh canh nhè nhẹ. "Ôi, Albert," Paul bỗng nói bằng giọng bình tĩnh không ngờ và đầy tiếc nuối, "ai có thể nghĩ rằng..."

Ông bước ra. Frieda đứng khóc ở chái nhà. Ai đó bê hành lý đi. Rồi tất cả lại im lặng.

Thêm Bình Luận