Chương 49: Vụ án thứ 11 - Oan hồn nhà cổ (3)

Khám nghiệm tử thi. Trước tiên, chúng tôi giải phẫu thi thể Cổ Hương Lan.

Cổ Hương Lan mặc áo bông, quần bông, khắp người đẫm máu. Trên thi thể có tổng cộng hai mươi mốt nhát dao chém, trong đó mười bảy nhát ở vùng đầu mặt, bốn nhát ở cổ. Xương sọ bị vỡ lún, tổ chức não nát nhừ, là kiểu tử vong tức thì. Sau khi tử vong, hung thủ còn chém bốn nhát vào vùng cổ nạn nhân, làm đứt hoàn toàn động mạch, tĩnh mạch cảnh, thực quản và khí quản; phần đầu chỉ còn nối lỏng lẻo với thân mình nhờ xương cột sống cổ. Nạn nhân tử vong bởi chấn thương sọ não nghiêm trọng.

Sư phụ thu lại thước cuộn trong tay, nói: “Mọi người xem, hung khí là gì?”

Đại Bảo nói: “Dao chặt loại một lưỡi, khẳng định được chứ?”

Tôi gật đầu, nói: “Phần xương bị tổn thương rất nghiêm trọng, đây là dao chặt bằng kim loại khá nặng và rất sắc.” Nói xong, tôi bất giác nhớ lại vụ án xẻ xác xảy ra vào năm ngoái, hung khí gây án chính là một con dao chặt xương rất nặng.

Sư phụ nói: “Mọi người xem, ở vùng mặt, đầu và cổ nạn nhân có rất nhiều vết thương, tuy dính liền với nhau, nhưng nếu quan sát kỹ, vẫn nhìn rõ độ dài của từng vết chém. Vừa nãy tôi đã thử đo, nhát chém dài nhất là 8 centimet. Mọi người đã nhìn thấy loại dao chặt nào mà lưỡi dao chỉ dài có 8 centimet chưa? Hơn nữa, nhìn vào hình thái của chỗ xương gãy, thấy lưỡi dao rất dày, trong khi lưỡi dao chặt lại chỉ có độ dày trung bình.”

Tôi ngẩn ra một lát, kêu lên: “Ồ, rìu?”

Sư phụ gật đầu nói: “Phải, hung khí chính là rìu.”

“Giống người gì mà tàn nhẫn đến thế kia chứ?” Tôi chau mày nói. “Hành hung quá độc ác, chém người ta tàn bạo đến mức này.”

Sư phụ đang kiểm tra dạ dày của Cổ Hương Lan, không trả lời tôi mà hỏi: “Lúc nãy họ nói nạn nhân đi ăn cỗ cưới lúc mấy giờ?”

Tôi chớp mắt vài cái rồi đáp: “Hình như là 7 giờ.”

“Nếu đúng như vậy,” sư phụ bấm đốt ngón tay tính toán rồi nói, “đã loại trừ khả năng Tôn Hải Âu gây án.”

Tôi biết sư phụ là người rất thận trọng, nếu không có bằng chứng xác thực, sẽ không kết luận đại khái. Về mặt tính toán thời gian tử vong, sư phụ có phương pháp riêng của mình, thậm chí sai số có thể rút lại chỉ còn một giờ đồng hồ.

“Ý sư phụ là,” tôi nói, “căn cứ vào thời gian tử vong, đã loại trừ Tôn Hải Âu gây án?”

“Phải!” Sư phụ gật đầu xác nhận. “Suy đoán theo phương pháp mới thì thời gian tử vong chính xác của nạn nhân có lẽ là từ 11 giờ đêm hôm trước tới 1 giờ sáng hôm sau. Trong khoảng thời gian này, Tôn Hải Âu vẫn ở trên tàu.”

Đột nhiên, điều tra viên chính mồ hôi mồ kê nhễ nhại chạy xộc vào trong phòng giải phẫu, nói: “Tổng đội phó Trần, đã bắt được Tôn Hải Âu rồi.”

Sư phụ chẳng buồn ngẩng đầu, nói: “Thả ra, một phút trước chúng tôi đã loại trừ khả năng anh ta gây án rồi.”

Điều tra viên nói: “Chúng tôi cũng đang định báo cáo với anh chuyện này, vừa nãy Tôn Hải Âu đang đủng đỉnh đi về nhà mình thì bị bắt ở ngay đầu làng. Sau khi hay tin người nhà đều đã chết, anh ta vô cùng kinh hãi, đau đớn khóc lóc vật vã. Chúng tôi cũng có cảm giác không phải là anh ta gây án.”

Sư phụ khẽ gật đầu: “Vậy thì đúng rồi. Hiện trường không phát hiện thấy có dấu vết của rìu, chúng tôi cho rằng hung thủ đã mang theo rìu nhỏ vào hiện trường. Kết hợp với dấu vết lục lọi trong tủ đầu giường, chúng tôi vẫn suy đoán đây có lẽ là một vụ án trộm cắp diễn biến thành cướp của gϊếŧ người.”

Điều tra viên gãi đầu gãi tai, bối rối nói: “Vậy bước tiếp theo chúng tôi phải làm gì? Nếu là trộm cướp lưu động gây án thì khó khăn đấy. Tới lúc này, bên hiện trường vẫn chưa có tin tức gì báo về, cũng chưa phát hiện ra vật chứng dấu vết có giá trị nào khác, ngoại trừ những vết chân không có gì đặc biệt.”

“Đừng lo.” Sư phụ giơ tay nói, “vụ án nào cũng đơn giản như thế thì cần đến chúng tôi làm gì?”

*

Đã loại trừ nghi phạm số một, đã xác định được tính chất vụ án, nhưng lại càng khiến chúng tôi cảm thấy rối bời. Nhìn thi thể của bé gái đáng yêu nằm im lìm trên bàn giải phẫu, ai nấy đều thấy trong lòng trĩu nặng.

Bé gái đúng là đã bị xâm hại tìиɧ ɖu͙©. Nhìn vào tổn thương ở bộ ρᏂậи 🅢iиɧ ɖụ© của bé, chúng tôi phán đoán hung thủ đã có hành vi da^ʍ ô đối với bé gái sau khi đã gϊếŧ chết nạn nhân.

Còn về nguyên nhân tử vong của em bé, sau khi khám nghiệm tử thi, chúng tôi vẫn nghĩ mãi không ra. Trên cơ thể bé gái có dấu hiệu ngạt thở rõ rệt, nhưng vùng cổ và khoang miệng, mũi đều không bị tổn thương. Trong đường hô hấp có ít bọt nước nhưng không thấy có hiện tượng phù phổi, dạ dày cũng không chứa đầy chất lỏng giống như nạn nhân đuối nước thông thường, mà khô ráo không khác gì dạ dày của Cổ Hương Lan.

“Loại trừ ngạt thở cơ học do bị bóp cổ hoặc bịt mũi miệng gây ra.” Đại Bảo nói. “Tuy nhiên lại không có đặc trưng điển hình của chết đuối, liệu có phải là do cô bé bị dốc đầu thúc xuống nước không?”

“Cậu chưa nghe nói tới chết đuối khô bao giờ à?” Sư phụ lừ Đại Bảo một cái, nói. “Đầu chúc xuống nước cũng là chết đuối điển hình, cũng sẽ có đặc trưng của chết đuối. Chết đuối khô thì khác. Nguyên lý của chết đuối khô là sau khi nước lạnh lọt vào đường hô hấp sẽ kí©h thí©ɧ cổ họng, khiến cho thanh môn co thắt, bịt kín đường hô hấp, thường xảy ra vào mùa đông.”

“Ờ…” Đại Bảo le lưỡi, nói, “em có nghe nói đến, nhưng chưa gặp.”

“Cũng có nghĩa là, khi bé gái còn sống đã bị hung thủ xách ngược lên rồi nhúng đầu vào vại nước lạnh, sau đó lột quần bé gái, thực hiện hành vi da^ʍ ô?” Tôi đau xót phục dựng hiện trường vụ án.

Sư phụ gật đầu.

“Kẻ này thần kinh rồi chắc?” Đại Bảo nghiến răng trèo trẹo.

Sư phụ đưa tay chỉ vào Đại Bảo nói: “Lần này có lẽ cậu nói đúng đấy, vừa nãy quan sát các tổn thương trên lưng Chu Phượng, tôi thấy suy đoán của cậu rất có cơ sở.”

“Bệnh nhân tâm thần gây án?” Tôi bước tới bên cạnh, vén áo Chu Phượng lên, nhìn thấy trên lưng nạn nhân đúng là có rất nhiều vết thương kỳ quặc.

“Chỉ có thể giải thích rằng trí tuệ của hung thủ không bình thường.” Sư phụ nói. “Thứ nhất là loại người dễ kích động mất kiểm soát. Thứ hai là trẻ vị thành niên. Kẻ tâm thần gây án thường là không có mục đích, nhưng trong vụ án này, hung thủ có mục đích rõ ràng, chính là vì tiền. Gây án với mục đích rõ ràng thế này thì hung thủ không phải là bệnh nhân tâm thần được.”

Tôi và Đại Bảo chuyển thi thể Chu Phượng lên bàn giải phẫu, lấy vải gạc lau sạch vết máu trên thi thể.

“Hai tay nạn nhân có rất nhiều vết chém, là vết thương do kháng cự.” Tôi vừa đo đạc vết thương, vừa nói. “Tại vùng đầu và mặt cũng có nhiều vết chém, xương sọ phía dưới vết thương sâu nhất có hiện tượng gãy xương.”

“Nạn nhân tổn thương nhẹ hơn nhiều so với Cổ Hương Lan.” Đại Bảo nói. “Tử vong chủ yếu là do mất máu quá nhiều.”

Sư phụ nói: “Tất nhiên rồi. Khi bị chém, Cổ Hương Lan đang nằm ngửa, dưới đầu có đệm trải giường, bởi vậy tổn thương do bị chém sẽ rất nghiêm trọng. Còn Chu Phượng bị thương trong quá trình vật lộn với hung thủ, do cơ thể ở trạng thái vận động nên lực chém giảm đi quá nửa, bởi vậy tổn thương sẽ nhẹ hơn nhiều.”

“Sư phụ, không phát hiện ra tổn thương do bị khống chế trên thi thể.” Tôi cẩn thận quan sát tổ chức dưới da tại các khớp xương, nói.

Sư phụ chống hai tay lên mép bàn giải phẫu, cúi đầu nói: “Đúng vậy, điều này đã chứng thực quan điểm trước đó, năng lực khống chế của hung thủ có hạn, thể lực của hắn chỉ tương đương với nạn nhân.”

“Tương đương với thể lực của một phụ nữ nhỏ bé và yếu ớt?” Đại Bảo nói. “Chẳng lẽ hung thủ lại là phụ nữ?”

Sư phụ lừ Đại Bảo một cái: “Phụ nữ gì mà lại giở trò đồϊ ҍạϊ với đứa bé gái?”

Đại Bảo há miệng, định nói gì đó lại thôi.

“Kết hợp với phân tích trước đó của sư phụ,” tôi nói, “liệu vụ án này có phải do trẻ vị thành niên gây ra không?”

“Trẻ vị thành niên đi giày cỡ 40?” Điều tra viên bên cạnh nói xen vào.

“Không thể loại trừ khả năng này.” Sư phụ nói. “Từng có một sát thủ gϊếŧ người hàng loạt đi giày cỡ 37, nên rất nhiều chuyên gia đã suy đoán rằng hung thủ là một người đàn ông thấp lùn dưới 1,6 mét. Kết quả là sau khi phá án mới ngã ngửa người, té ra hung thủ là một thanh niên cường tráng cao trên 1,8 mét nhưng chân rất nhỏ. Sự khác biệt ở từng cá thể là rất lớn, đôi khi nằm ngoài dự đoán của chúng ta.”

“Đặc biệt là những tổn thương như thế này.” Tôi lấy vải xô lau khô vùng lưng của Chu Phượng, để lộ ra hơn ba mươi vết thương nhỏ dài không tới 1 centimet xếp thành hàng song song nhau.”

Vết thương nhỏ một đầu hơi tù, một đầu khá sắc, tạo thành hình tam giác rõ ràng. Trên lưng áo ngủ của Chu Phượng cũng có vết rách tương ứng, hình thái tương tự.

“Ồ…” Tôi đang định lên tiếng thì thấy sư phụ giơ tay ngăn lại.

Sư phụ rạch mổ lớp da lưng Chu Phượng, phân tách từng lớp cơ trên lưng nạn nhân, sâu dưới lớp cơ có vết xuất huyết màu đỏ thẫm.

“Giờ thì đã rõ,” sư phụ nói, “những vết thương này là tổn thương vào lúc hấp hối. Tổn thương ở lớp cơ tầng sâu sau lưng là tổn thương do bị chèn ép.”

“Sau khi chém ngã nạn nhân, hung thủ còn cưỡi lên lưng chị ta,” tôi nói, “sau đó dùng cạnh lưỡi rìu gõ xuống lưng nạn nhân? Có phải thế không?”

Sư phụ gật đầu xác nhận: “Phải. Vậy thì, từ góc độ tâm lý học tội phạm, cậu thử phân tích xem, lúc đó hung thủ ở trong trạng thái tâm lý thế nào?”

Tôi cúi đầu, ngẫm nghĩ hồi lâu, không trả lời.

“Là muốn khoe khoang thắng lợi sau cuộc vật lộn?” Đại Bảo phá vỡ bầu không khí im lặng.

Sư phụ nói: “Lần này thì Đại Bảo đã trả lời đúng, mười điểm. Hành động này càng chứng tỏ hung thủ là một kẻ trí tuệ không bình thường.”

Đại Bảo dương dương tự đắc nhìn tôi.

“Theo lời sếp Trần,” điều tra viên nói, “thì hung thủ có lẽ là trẻ vị thành niên? Điều này có liên quan tới vấn đề khoanh vùng điều tra đấy, sếp Trần đã khẳng định chưa?”

Sư phụ lắc đầu, nói: “Chưa thể khẳng định, bởi vậy tôi muốn tới hiện trường xem lại lần nữa. Từng ấy thời gian rồi mà vẫn chưa biết được hung thủ xâm nhập vào hiện trường bằng lối nào, như thế là rất không hợp lý!”

*

Ăn trưa xong, chúng tôi quay trở lại hiện trường, thấy Lâm Đào vẫn đang cắm cúi làm việc.

“Sếp Trần, chúng em có phát hiện mới.” Vừa thấy chúng tôi bước vào hiện trường, Lâm Đào đã phấn khởi thông báo.

“Tôi đã bảo mà!” Sư phụ nói. “Từng ấy thời gian rồi, kiểu gì cũng phải có chút thông tin chứ.”

Lâm Đào dẫn chúng tôi vào trong nhà vệ sinh bên cạnh nhà chái phía tây, nói: “Theo hướng của vết chân máu ẩn, sau khi sát hại ba mạng người, hung thủ đi ra ngoài qua cổng chính, sau đóng cổng lại. Còn hung thủ vào nhà qua lối nào, chúng em vẫn đang nát óc suy nghĩ, đã loại trừ khả năng hung thủ có chìa khóa, và đây chính là nơi duy nhất có thể xâm nhập vào hiện trường.”

Chúng tôi ngước nhìn lên, trên tường nhà vệ sinh có một ô cửa sổ nhỏ.

“Nhỏ thế này,” tôi kêu lên, “ai mà chui vào được?”

“Phải!” Lâm Đào nói. “Mới đầu chúng tớ cũng băn khoăn, nếu chui đầu vào trước, phía dưới không có điểm đỡ, kiểu gì cũng ngã cắm đầu xuống mà bị thương. Nếu hung thủ muốn vào nhà qua lối này, hắn sẽ phải trèo lên bệ cửa sổ, cuộn tròn người chui vào, sau đó nhảy xuống dưới. Nên chúng tớ đã kiểm tra kỹ lưỡng mặt đất và bệ cửa sổ.”

“Các cậu đã phát hiện ra chứng cứ để xác thực cho giả thiết này, phải không?” Ánh mắt sư phụ tràn đầy hy vọng.

Lâm Đào gật đầu nói: “Vâng, chúng em đã phát hiện ra trên bệ cửa sổ bên ngoài và nền nhà phòng vệ sinh có vết giày dính bùn với hoa văn giống hệt như vết giày dính máu tại hiện trường trung tâm.”

“Phải!” Sư phụ nói. “Đây chính là lối vào! Nhưng các cậu đã làm thí nghiệm chưa, người cao từng đâu mới có thể chui được vào qua ô cửa sổ bé tẹo như thế này?”

“Đã làm rồi ạ!” Lâm Đào nói. “Kết quả cho thấy, đàn ông cao tầm 1,6 mét, vóc người thấp bé cũng không thể chui vào nổi.”

“Thế là đàn ông chỉ cao hơn 1,5 mét ấy à?” Sư phụ nói. “Vậy thì khả năng lớn nhất chính là trẻ vị thành niên.”

Lâm Đào gật đầu.

“Sếp Trần, vậy theo anh thì đứa trẻ tầm bao nhiêu tuổi?” Điều tra viên gãi đầu gãi tai ngượng nghịu hỏi. “Có thể định lượng được không?”

“Tâm lý chưa phát triển toàn vẹn, dưới 16 tuổi.” Sư phụ dừng lại một lát, bổ sung tiếp. “Đã có chút khái niệm mù mờ về tìиɧ ɖu͙©, trên 13 tuổi.”

“Vậy có thể phán đoán là người quen gây án hay tội phạm lưu động gây án không?” Điều tra viên vẫn bối rối. “Hiện nay có không ít băng đảng trộm cướp mà thành viên toàn là đám choai choai 13, 14 tuổi. Nên đây chính là vấn đề then chốt, ảnh hưởng đến phương hướng điều tra tổng thể.”

Sư phụ cúi đầu, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Hiện tại vẫn chưa có bằng chứng để xác thực. Nhưng hung thủ không hề có hành động lục lọi đồ vật khác mà chỉ mở tủ đầu giường, cho thấy mục tiêu của hắn là nhắm vào tủ đầu giường. Đã có mục tiêu, thì khả năng lớn là người quen.”

“Trong lúc lục lọi tủ đầu giường, hung thủ đã khiến nạn nhân giật mình tỉnh giấc nên đã ra tay sát hại nạn nhân.” Tôi nói. “Cũng có thể là sau khi gϊếŧ người; do sợ người khác nghe thấy tiếng động hoặc vì nguyên nhân nào khác nên mới không tiếp tục lục lọi những chỗ khác nữa.”

Sư phụ gật đầu tán thành: “Phải, cũng không thể loại trừ khả năng mà cậu vừa nêu. Vậy hiện giờ, chúng ta cần kiểm tra kỹ lưỡng một lần nữa mục tiêu của hung thủ, chính là chiếc tủ đầu giường.”