Chương 50: Vụ án thứ 11 - Oan hồn nhà cổ (4)

Quan sát kỹ lưỡng lần nữa, chúng tôi phát hiện ra cái tủ đầu giường gỗ gụ được chế tác rất kỳ công. Bốn phía ghép nối rất khít khao, nhưng không nhìn thấy một chiếc đinh nào.

Sư phụ mở cánh cửa, quan sát khắp lượt, lại kéo mở ngăn kéo, cẩn thận nhìn thật kỹ bên trong.

“Cậu có cảm thấy cái ngăn kéo có chỗ nào bất ổn không?” Sư phụ quay lại hỏi tôi.

Tôi nhìn vào trong, ngoài vài cuốn album xếp gọn gàng, trong ngăn kéo không thấy có gì khác thường cả. Tôi ngơ ngác lắc đầu.

Sư phụ nói: “Cậu xem, ngăn kéo rất dày, nhưng bên trong chỉ để hai cuốn album đã đầy, độ dày thế này có hợp lý không?”

Tôi nắm lấy ngăn kéo, nhìn kỹ khắp trên dưới, nói: “Phải rồi, trông hơi bất thường thật.”

Tôi mắm môi mắm lợi lôi cái ngăn kéo, định giật hẳn nó ra.

Sư phụ lắc đầu nói: “Loại tủ này ngăn kéo thường được cố định phía sau, không lôi ra được đâu.”

Nói xong, sư phụ gõ khắp một vòng xung quanh ngăn kéo rồi phấn khởi nói: “Ngăn kéo rỗng ở giữa.”

“Ý sư phụ là có ngăn ngầm nữa à?” Tôi nhấc cuốn album ra, gõ xuống đáy ngăn kéo, thấy phát ra tiếng “cộp cộp” rất vang, kinh nghiệm mách bảo tôi bên dưới ngăn kéo đúng là có một ngăn ngầm nữa.

Sư phụ khẽ khàng lần sờ xung quanh ngăn kéo, sau đó cất giọng bí hiểm: “Mò thấy chốt ngầm rồi.”

Vừa nói dứt câu, “tạch” một tiếng, đáy ngăn kéo lập tức tách đôi từ giữa.

Tôi kinh ngạc không thốt nên lời, lần đầu tiên nhìn thấy loại ngăn ngầm, chốt ngầm cổ xưa bí hiểm thế này, đúng là ngoài sức tưởng tượng. Lật cánh cửa vừa được mở ra dưới đáy ngăn kéo, liền lộ ra một ngăn ngầm phía dưới.

Trong ngăn ngầm có vài cuốn sổ tiết kiệm chồng lên nhau lộn xộn.

“Đây có lẽ là nơi cất giấu tiền bạc, sổ tiết kiệm của Cổ Hương Lan.” Sư phụ nói. “Giờ đã có suy đoán gì chưa?”

Tôi lật giở mấy cuốn sổ ghi tên Chu Phượng, tiền gửi đúng là không hề ít. Tôi nói: “Mục tiêu của hung thủ đã rõ, chính là tiền cất trong ngăn ngầm. Nhưng là ai mới biết được trong tủ đầu giường của Cổ Hương Lan có ngăn ngầm? Chắc chắn phải là người rất thân thiết.”

“Thế bà Cổ Hương Lan không sợ người ta khênh cả cái tủ đi à?” Đại Bảo bật ra một câu chẳng đâu vào đâu.

Sư phụ cười nói: “Cậu bê thử xem.”

Đại Bảo bước lại, ôm lấy cái tủ, ráng sức nhấc lên rồi nói: “Ái chà, đúng là không bê nổi. Đồ cổ chắc chắn thật đấy, gỗ xịn có khác!”

“Nhưng,” tôi băn khoăn, “hung thủ đã đạt được mục đích chưa?”

Sư phụ gật đầu, nói: “Có lẽ đã đạt được mục đích mới không lục lọi nơi khác. Đã có chứng cứ này, chúng ta có thể mạnh dạn suy đoán, hung thủ cực kỳ thông thạo hiện trường.”

“Đã loại trừ khả năng Tôn Hải Âu gây án.” Tôi nói. “Nếu là trẻ vị thành niên nhà khác gây án, tại sao đối tượng biết được Cổ Hương Lan giấu tiền ở đây? Chỗ này cũng kín đáo đấy chứ.”

“Không biết!” Sư phụ nói. “Lỡ đâu do Cổ Hương Lan không đề phòng thằng bé nên đã mở ngăn ngầm ngay trước mặt nó cũng nên.”

Sư phụ lại lay cái chốt ngầm tinh xảo mấy cái nữa rồi quay sang nói với điều tra viên: “Người quen, mà không, phải nói là người rất quen, thiếu niên, tầm 13 tới 16 tuổi, cao khoảng 1,5 mét, gầy gò. Đặc điểm là có rìu nhỏ, sau khi gây án, áo sẽ dính máu, đột nhiên có nhiều tiền tiêu xài. Có nhiều điều kiện thế này, không khó điều tra chứ?”

Điều tra viên mắt sáng bừng, khẽ gật đầu.

“Vậy, trưa mai phá án, ok?” Sư phụ hỏi.

Điều tra viên giơ tay xem đồng hồ, nói: “Được, em sẽ cố gắng hết sức.”

“Ừm!” Sư phụ nói. “Cậu đi điều tra trước đi, chúng tôi ở đây kiểm tra hiện trường thêm chốc nữa.”

“Vẫn phải kiểm tra nữa?” Tôi xoa xoa cái thắt lưng ê ẩm. Từ sáng sớm tới giờ đã được nghỉ ngơi chút nào đâu.

“Đương nhiên.” Sư phụ nói, “cho tới lúc này, ngoài phân tích suy đoán thì chưa phát hiện ra bất cứ vật chứng nào để xác nhận hung thủ, vụ án thế này mà đưa ra trước tòa, lại chẳng bị luật sư đập cho te tua?”

Tôi chỉ còn biết gật đầu.

Lâm Đào nói: “Nhưng kết quả điều tra của chúng ta cho thấy hung thủ luôn đeo găng tay, nên khả năng để lại vân tay hầu như không có!”

Sư phụ nói: “Tôi cũng biết là rất khó khăn, nhưng không thể cho đó là việc đương nhiên mà từ bỏ khám nghiệm, vì tìm ra chứng cứ là trách nhiệm của chúng ta.”

*

Theo chỉ đạo của sư phụ, chúng tôi chia nhau lấy vết máu tại hiện trường, hy vọng rằng hung thủ đã bị thương trong quá trình hành hung mà để lại dòng máu tội ác ở đâu đó. Lâm Đào dẫn một tốp công sự lần tìm dấu vân tay dọc theo “quỹ đạo hành động” của hung thủ. Trong khi đó, sư phụ nhàn rỗi ngồi bên ngoài vòng cảnh giới hút thuốc, chuyện phiếm với phân đội trưởng đội Cảnh sát hình sự Công an huyện.

Khoảng hơn hai tiếng đồng hồ sau, khi tôi không còn chịu đựng nổi cơn đau nhức ở vùng thắt lưng nữa, chợt nghe thấy Lâm Đào kêu lên kinh ngạc.

Sư phụ bỏ ngay điếu thuốc, đeo găng tay, vừa đi vào hiện trường vừa hỏi: “Bình tĩnh, bình tĩnh, đừng có hoảng hốt lên như thế chứ.”

“Sếp Trần nói rất đúng.” Lâm Đào đeo khẩu trang, chỉ vào một mảng tường nhà vệ sinh vừa bị cậu ta dùng bột bạc bôi đen, nói. “Đã có vân tay!”

“Nhưng đã nói là đeo găng tay cơ mà?” Sư phụ nheo mắt nhìn.

“Đây là vân tay ngón cái.” Lâm Đào mau chóng đưa ra phán đoán. “Xung quanh vân tay có vết găng tay.”

Sư phụ hết nhìn Lâm Đào lại nhìn tôi, sau đó ánh mắt một lần nữa dừng lại trên dấu vân tay, nói: “Hiểu rồi, găng tay bị rách!”

Lâm Đào gật đầu, nói: “Có thể suy luận như vậy.”

“Khẳng định là có liên quan tới vụ án chứ?” Sư phụ hỏi lại.

“Khẳng định!” Lâm Đào nói chắc nịch. “Một số vết găng tay dính máu đã phát hiện ra ở hiện trường đều giống hệt với vết găng tay xung quanh ngón cái ở chỗ này. Hung thủ đã không gặp may, khi nhảy qua ô cửa sổ xuống, ngón tay đã vô tình tì lên gạch men lát tường qua lỗ thủng của găng tay.”

“Tốt!” Sư phụ phấn khởi đấm lên bức tường, nói. “Có được chứng cứ này rồi, chẳng mấy mà phá được án!”

Lâm Đào không hề tỏ ra đắc ý trước phát hiện của mình, vẫn khiêm tốn nói: “Nếu không nhờ sếp Trần đốc thúc thì chúng em đã từ bỏ ý định tìm kiếm vân tay rồi. Đúng như lời anh nói, chưa tới giây phút cuối cùng thì quyết không từ bỏ. Sự việc tưởng chừng không thể, cuối cùng vẫn có thể xảy ra.”

Sư phụ gật đầu tán thành, nói: “Thu quân, về nghỉ. Bảo họ mau chóng đưa mẫu vân tay ở hiện trường tới bộ phận điều tra để làm bằng chứng, còn chúng ta quay trở về chờ tin từ bộ phận điều tra vào ngày mai!”

*

Quá mệt mỏi vì ngay ngày đầu tiên đi làm trở lại sau dịp nghỉ Tết đã phải lao lực quá độ nên vừa về tới khách sạn, tôi đã lăn ra ngủ như chết. Tới khi ánh nắng ấm áp mùa đông chiếu lên cửa kính vào sáng hôm sau, tôi mới tỉnh dậy. Cầm điện thoại lên xem, đã gần 9 giờ, tôi vội vàng bật dậy, không kịp cả đánh răng rửa mặt, cứ thế chạy thẳng tới tổ chuyên án.

Sư phụ đã ngồi sẵn trong phòng làm việc, sắc mặt tối sầm.

“Thực đáng ngại!” Điều tra viên chính nói. “Qua điều tra sơ bộ, Cổ Hương Lan là người rất hiếu khách, thích làm việc thiện, quan hệ rộng rãi, được nhiều người yêu mến, hơn nữa đặc biệt yêu quý trẻ nhỏ. Chúng tôi đã tìm ra tổng cộng mười bảy cậu nhóc thường xuyên tới nhà bà ấy chơi, có khả năng biết được chỗ giấu tiền trong kệ đầu giường và phù hợp với độ tuổi đưa ra.”

“Sao nhiều thế?” Sư phụ nói. “Đã có vân tay rồi cơ mà? Phải dễ điều tra mới đúng chứ?”

Điều tra viên bối rối nói: “Vì đều là trẻ vị thành niên nên công tác điều tra của chúng tôi gặp rất nhiều rắc rối. Dân làng phản ứng gay gắt khi chúng tôi yêu cầu lấy mẫu vân tay của con em họ, hiệu trưởng trường làng cũng ra mặt can thiệp, nói là sẽ phản ánh lên sở Giáo dục huyện, nói hành vi của chúng tôi sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý trẻ nhỏ.”

Sư phụ thở dài, vừa xem lại ảnh khám nghiệm tử thi trên laptop vừa nói: “Cũng có lý, lấy vân tay của trẻ nhỏ trên phạm vi rộng thế này đúng là không thích hợp. Tôi cũng không ngờ lại có nhiều đối tượng đến vậy.”

Lâm Đào buông điện thoại xuống, nói: “Vừa nhận được điện thoại thông báo, vân tay trên miếng vàng hoàn toàn trùng khớp với vân tay trong nhà vệ sinh mà chúng ta lấy được.”

“Miếng vàng?” Tôi ngạc nhiên hỏi.

Sư phụ khẽ cau mày, nhìn tôi nói: “Ai bảo cậu ngủ nướng tới tận bây giờ, bỏ lỡ mất đoạn đầu rồi!”

Tôi lườm Đại Bảo một cái, ra ý trách móc anh ta biết đường dậy mà không biết đường gọi tôi một tiếng.

Đại Bảo vội vàng tiếp lời: “Buổi sáng hôm nay, có người dân phát hiện thấy một cái túi nhỏ đựng vài miếng vàng trong bãi rác của làng. Thấy trên miếng vàng có dính máu thì vội vã báo cảnh sát ngay.”

“Ồ!” Tôi nói. “Chắc cha mẹ của hung thủ sợ chúng ta phát hiện ra nên mới mang đi vứt.”

Sư phụ gật đầu nói: “Đã có vân tay trên miếng vàng làm vật đối chiếu thì vân ngón cái kia chắc chắn là của hung thủ.”

“Thế nhưng,” điều tra viên lại sợ sư phụ bắt họ đi lấy mẫu vân tay nữa, vội nói, “công việc lấy vân tay đúng là rất khó khăn.”

“Trong mười bảy thằng bé này có ai thuận tay trái không?” Sư phụ đột ngột chuyển chủ đề.

Điều tra viên lật giở sổ ghi chép, nói: “Có một đứa. Thằng bé tên là Quế Nguyên Phong, tháng trước vừa sinh nhật tròn 14 tuổi, đang học lớp 6, là đứa trẻ học giỏi nhất, ngoan ngoãn nhất trong số mười bảy đứa, cũng được bà Cổ Hương Lan yêu quý nhất, thường xuyên gọi tới nhà ăn cơm.”

“Vậy, lấy vân tay của một mình thằng bé này để đối chiếu, được chứ?” Sư phụ nói.

“Nhưng vì sao kia?” Điều tra viên tỏ ra khó hiểu. “Chúng em lại cảm thấy thằng bé này ít có khả năng là hung thủ nhất.”

Sư phụ nói: “Hãy nhìn vào tổn thương của Cổ Hương Lan và Chu Phượng.”

Tôi ghé đầu xem ảnh, sư phụ vừa xoay màn hình lại, tôi đã lập tức bừng tỉnh, nói: “Hiểu rồi. Cổ Hương Lan bị hành hung trong tư thế đầu quay vào tường phía bắc, tay trái quay sang tường phía đông, nằm ngửa trên giường, hung thủ đứng ở bên tay phải của nạn nhân, một bên đầu của Cổ Hương Lan bị ngăn cách bởi kệ đầu giường, bởi vậy nếu hung thủ cầm rìu tay phải thì vết thương sẽ có hướng dọc hoặc chéo, nhưng các vết thương lại đều nằm ngang, cho thấy hung thủ phải cầm rìu tay trái mới làm được như vậy.”

“Em cũng đã rõ.” Đại Bảo nói. “Vết thương trên lưng Chu Phượng là do hung thủ cưỡi trên lưng nạn nhân rồi gõ mép rìu xuống, các vết thương nằm song song nhau, nhưng toàn bộ đều chếch sang bên trái. Nếu cầm rìu tay phải thì đáng lẽ phải chếch về bên phải mới đúng.”

Sư phụ gật đầu hài lòng, nói với điều tra viên: “Đã nghe rõ chưa?”

Điều tra viên có vẻ vẫn chưa hiểu lắm, nói: “Thôi được, chúng em sẽ thử xem sao.”

*

Đây là một suy đoán mang tính then chốt. Chính nhờ có suy đoán này mà việc phá án diễn ra vô cùng thuận lợi.

Khi bí mật khám nhà Quế Nguyên Phong, điều tra viên đã phát hiện ra trong sân có dấu vết đồ vật bị thiêu hủy, lấy được một chút mẫu vật chưa cháy hết, xét nghiệm ra được ADN của hai nạn nhân. Có lẽ đó chính là quần áo dính máu mà cha mẹ hung thủ đã mang đốt.

Đối chiếu vân tay tại hiện trường với vân tay của Quế Nguyên Phong, xác nhận là của cùng một người.

Vụ án đã được chốt.

Khi thẩm vấn trẻ vị thành niên, cần có người giám hộ. Do cha mẹ Quế Nguyên Phong có dấu hiệu bao che tội phạm nên cũng bị bắt giữ, bởi vậy, giáo viên chủ nhiệm của Quế Nguyên Phong đã trở thành người giám hộ cho cậu bé.

Khi theo sư phụ tới phòng thẩm vấn, chúng tôi nhìn thấy một cậu bé mặt mũi thanh tú đang ngoan ngoãn thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

“Bố cháu thua bạc nợ người ta rất nhiều tiền.” Quế Nguyên Phong quệt nước mắt nói. “Mẹ cháu ngày nào cũng khóc, cháu muốn giúp bố mẹ.”

“Sao cháu biết trong kệ đầu giường nhà bà Cổ Hương Lan có ngăn kéo ngầm, biết cả trong đó có vàng?” Điều tra viên hỏi.

“Hồi mới vào tiểu học, cháu tới nhà cô Chu Phượng chơi, nhìn thấy bà Cổ lấy tiền từ trong kệ đầu giường ra.” Cậu bé nói. “Lúc đó cháu còn đòi bà Cổ biểu diễn mở khóa cho cháu xem lần nữa, nhưng bà Cổ lại không chịu cho cháu biết.”

Tôi vô thức gật đầu, nghĩ bụng cũng khó trách, chẳng ai lại đi đề phòng một đứa trẻ 7, 8 tuổi cả. Thế nhưng bà Cổ Hương Lan đã không thể ngờ được rằng đứa trẻ 7, 8 tuổi ấy vẫn ghi nhớ sự việc này tới sáu, bảy năm sau.

“Tại sao cháu lại phải gϊếŧ người?” Điều tra viên hỏi.

“Tại cháu vừa cho vàng vào túi thì bà Cổ tỉnh dậy.” Cậu bé trả lời. “Bà ấy nhận ra cháu, nên cháu đành phải cầm rìu chém bà ấy, sau đó định chạy trốn luôn. Nhưng cháu vừa ra tới sân thì nhìn thấy cô Chu từ trong phòng chạy ra, chắc là cô ấy đã nghe thấy tiếng chém của cháu, thế là cháu cũng chạy tới chém cô ấy. Nhưng cô ấy khỏe quá, cháu đánh mãi cô ấy mới ngã xuống. Cháu còn cầm rìu chọc vào người cô ấy, hỏi cô ấy đã chịu thua chưa.”

Tôi liếc nhìn sư phụ, nghĩ bụng đến tâm lý của thằng bé sư phụ cũng đoán chính xác, đúng là thiên tài.

“Cháu chém cô ấy bao nhiêu nhát?” Điều tra viên hỏi.

“Cháu không biết, lúc đó trời tối quá, cháu chỉ nhìn thấy bóng người lờ mờ.” Cậu bé đáp.

“Nhưng tại sao cháu phải gϊếŧ chết Chu Lanh Lợi? Nó mới ba tuổi thôi mà!” Tôi nhịn không nổi hỏi xen vào.

Quế Nguyên Phong ngước mắt nhìn tôi, lại nhìn điều tra viên, có ý muốn hỏi có cần thiết phải trả lời câu hỏi của tôi không.

Điều tra viên gật đầu.

Quế Nguyên Phong nói: “Nó cứ ngồi trong sân khóc ầm lên, tại cháu sợ người khác nghe thấy nên đành phải làm vậy.”

“Đành phải làm vậy?” Tôi nghiến răng trèo trẹo. “Mà cháu còn giở trò da^ʍ ô với con bé nữa?”

Quế Nguyên Phong ngơ ngác nhìn tôi, chắc không hiểu từ “da^ʍ ô” có nghĩa gì.

“Cháu đã cởϊ qυầи của em bé phải không?” Điều tra viên hỏi. “Cháu đã làm những gì?”

Quế Nguyên Phong đỏ bừng mặt, từ từ cúi đầu xuống, lí nhí: “Cháu… cháu muốn xem thử chỗ ấy của con gái khác con trai như thế nào.”

Sư phụ không muốn nghe nữa, đập khẽ vai tôi, ra hiệu rút lui.

“Chao ôi!” Đại Bảo ngồi thẳng dậy, thở dài một tiếng, lẩm bẩm. “Giáo dục kiểu gì thế này không biết!”

Sư phụ cũng chỉ biết lắc đầu bất lực.

Quế Nguyên Phong thấy chúng tôi bỏ đi thì cuống quýt gọi với theo: “Chú ơi, từ từ đã!”

Sư phụ quay đầu lại nhìn cậu bé.

“Cháu đã kể hết rồi, ngày mai trường cháu vào học, thế cháu đã đi học được chưa ạ?”