Chương 39

Chương 39.

10 giờ tối.

Đọc kinh trong thư viện xong, hạ bước lững thững về phòng nằm nghỉ, nhưng thấy cửa phòng đang có sư nhất nguyên đứng trò chuyện với hai thầy trẻ tuổi khác, nên ngại không muốn đυ.ng mạt, liền lững thững đi dạo tản bộ.

Hạ bước ra sân sau của chùa,ở đây có cầu thang lớn dẫn sang khu thờ bắc, khu thờ xây trên mỏm núi lưng chừng nên khá cao, cách so với đất cỡ chững mười mét.

Hạ nhìn những bậc thang dài, tự nhiên nổi hứng bước lên xem thử. Từ khi tới chùa đến giờ cũng đã lâu nhưng những khu vực không liên quan giống như điện thờ khu bắc này thì hạ chẳng tới bao giờ nên cũng không biết.

Cứ lần bước mãi, lối cầu thang quanh co ngoằn nghèo , bậc lại cao nên cũng không đếm được, hạ bước lên tới gian thờ khu bắc thấy đèn vẫn còn sáng, cửa vẫn mở liền bước vào gian điện thờ. Hóa ra gian điện là nơi thờ địa tạng vương bồ tát, người đứng trên điện khuôn mặt uy nghi, hạ nhìn vào tượng bỗng dưng thấy rất đỗi thân quen, như thể đã gặp ở đâu rồi.

Hạ quỳ xuống cúi người kính cẩn lạy tượng, rồi đảnh lễ đàng hoàng phân miêng, thắp một nén nhang, xong xuôi đâu đây thì lẹ làng bước khẽ ra ngoài, thấy khoảng sân sau còn rộng, liền rảo bước đi quanh.

Điện thờ ở trên cao nên quan sát được cả bốn bề chung quanh, nhìn về mặt nam là sân chùa, phật tử đi lại lưa thưa, lại đảo qua đi về mặt bắc, nhìn ra lối vành đai sau chùa thì thấy một khu nghĩa địa nhỏ cỡ chừng hai, ba mươi mộ.

À, ra nơi đây là cõi mộ phần của những phật tử, chọn đất tốt cạnh chùa mà táng mong được hưởng phước khí mà thọ về cõi tốt, gian điện thờ địa tạng vương bồ tát cũng được đặt ngay đây chính là vì như thế, để ở nơi cao ngài có thể quan sát mắt ra mà trông, mà độ cho vong ở khu nghĩa địa ấy, người nào thiết kế nơi đây cũng am hiểu phong thủy âm dương lắm.

Hạ thầm khen trong lòng.

Rồi Hạ nhìn xuống các mộ, chợt cảm ứng được, mắt thiên nhãn thông đã được địa tạng vương khai thị cho mà không biết, chợt thấy trong bóng đêm sâu dày có những hìn hài trắng nhạt nhạt cứ bay qua bay lại nơi các mộ, rồi nhìn vào trên của các mộ lại thấy có các thú lạ phát sáng, những con nửa giống thú nuôi, nửa giống thần thú hình thù mờ mờ ảo ảo, con thì nằm ưỡn mình trên mộ, con lại đang nằm cuộn tròn chỗ bia, con thì đậu trên cổng vòm mộ…

Đây là các linh thú người nhà hoặc sư đặt vào đấy để canh cho mộ.

Những việc đó hạ đều đã biết nên cũng chẳng hoang mang gì, cũng chẳng lấy làm lạ, chỉ thầm nhìn ngắm các thú đó mà khen đẹp.

Chợt đập vào mắt là một mộ rất lạ, có lửa bốc ngghi ngút, lại có ánh sáng phát ra lạ hơn các mộ khác.

Hạ trợn mắt lửa trừng trừng nhìn kĩ mộ ấy, thì thấy mộ như sau: cổng mộ hình vòm cong, cao chỉ tầm một mét, khum tròn ra hai bên, trước mộ là lễ quả hương hoa rất thịnh, khói nhang vẫn còn chứng tỏ mới có người thắp, mộ xây bằn ngói trông đã cũ, như thế tồn tại cả mấy trăm năm, trông rất khác lạ với các mộ khác trong khu nghĩa địa ấy, quanh mộ không có tà khí, nhưng lại phảng phất thứ gì đó u linh vẫn còn đọng lại.

Đoạn đảo mắt quan sát nơi phát ra lửa sáng lạ thì thấy có vị hộ pháp tay cầm thanh kiếm lớn, phát ra hào quang đang đứng án ngữ ngay trước cửa mộ.

Thật là,

Mộ thiêng trong đất lạ

Nghìn năm khí chẳng phải

Chư thần đứng hộ giá

Người trong mộ là ai?

Chợt thấy rất tò mò, liền đi xuống lại cầu thang, theo lối cửa sau của chùa mà đi ra khu nghĩa địa đó, tới tận nơi mộ xem xét cho rõ, thì thấy hóa ra là hầm mộ*

(*dạng mộ có cổng lộ thiên lên trên, cầu thang dẫn tới phần chính của mộ nằm sâu trong lòng đất, người thường chẳng ai làm mộ như thế.)

Hạ mới tiến tới gần mộ, thì chợt thấy có kẻ đang nhìn.

Thì ra là vị thần hộ pháp kia đang quắc mắt trừng trừng nhìn hạ.

Hạ đứng thẳng trước mặt thần nói lớn:

“mộ này của ai?”

Thần rất kinh ngạc, liền phát ra tiếng nói như sấm:

“người nhìn thấy ta sao?”

Hạ lặng thinh không đáp, mắt lửa vẫn nhìn thẳng thần.

Thần liền nói tiếp:

“người là ai? Tới mộ này có việc gì? Nếu để tỏ lòng thành kính thì thắp nhang rồi đi ngay, còn nếu như buông lời phỉ báng thì ta quật chết ngay, hoặc làm ngươi vỡ tim, hoặc sai vong ma ám theo ngươi cho tới chết.”

Hạ không thèm đáp thần, nhìn thẳng vào cửa mộ thì thấy hai đạo bùa dán chéo, trên mỗi bùa đó đều vẽ hình quỷ thần đen trên nền giấy trắng, trước mộ lại có tượng một con nghê* bằng đá xanh trấn giữ, hai bên mộ là tượng hai lính canh hộ pháp, trông có vẻ vừa giống bảo vệ mộ, lại vừa giống thuật trấn yểm.

(*linh vật)

Rồi nhãn thông tự phát ra, chợt hạ thấy nóng ran nơi túi áo pháp, mới sực nhớ ra là trong đó cất giữ đạo bùa, bùa này ở đâu ra chẳng biết chỉ biết rằng đêm hạ tỉnh giấc gϊếŧ rắn, thì nó đã nằm ngay bên đầu giường, trên bùa có ghi năm chữ: “địa âm tự- mật chú”, hạ có hỏi thầy đại trí thì thầy giải thích rằng không biết có chùa nào tên là địa âm tự, chỉ có trong kinh sách ghi rằng có chùa địa âm tự dưới âm phủ do địa tạng vương bồ tát chủ trì, hạ nghe thế cho là có điềm lạ nên cứ vậy gìn giữ bên mình chẳng rời.

Hạ nhìn thẳng nơi hai bùa chẳng hề thấy có chút khí lực gì, liền quắc mắt lửa nhìn thần mà hỏi:

“ta đến đây thành tâm không có mưu phỉ báng, cho hỏi thần kia giữ mộ nơi này, tên họ là gì?”

“ta là thần kim sa vương ở cõi trời dục giới, làm nhiệm vụ trông coi mộ này đã mấy trăm năm nay…còn mày là ai?”

“ta chỉ là sư trong chùa bên cạnh, thấy khí nơi đây vượng nên ghé thăm. Vậy đây là mộ ai?”

“mộ này là mộ của nữ pháp sư thanh trúc kinh tâm, chùa thanh trúc này dựng lên ở đây cũng là dựa theo tên người ấy, ngươi tu trong chùa ấy mà không biết hay sao?”

Hạ hỏi:

“nếu là hiền nhân tại sao lại phải trấn yểm?”

“vì nữ pháp sư vì đánh với yêu ma mà bị yêu mà bắt mất thần thức, nên yêu ma cũng theo người ấy mà tàng, do đó thờ pháp sư nhưng vẫn phải trấn yểm yêu ma.”

Lúc này hạ chợt đổi giọng, quắc mắt lửa nhìn thần quát lớn:

“à vậy ra mày làm thần giữ cho thuật trấn yểm ở mộ này, vậy mà để kẻ nào phá mất trấn yểm, mày phạm tội tắc trách còn không biết tội hay sao mà ở đó giả thần giả quỷ nạt nộ tao?”

Thần nghe vậy tái mét mặt, nhìn hạ mà nói:

“tiên sinh này người ở cõi nào?”

“phép giả trấn yểm này lừa được người thường sao lừa được tao? Tao có lệnh bài của địa âm tự đây, việc của mày là quản linh thú giữ mộ thì cứ làm tốt bổn phận là được, làm chẳng xong việc thì khôn hồn ở cõi nào về ngay cõi ấy chịu tội, hay mày muốn tới địa âm tự* chơi một chuyến?”

(*chùa ở cõi âm)

Nói đoạn giơ lá bùa có ghi chữ “địa âm tự- mật chú” ra cho kim sa vương xem, thần thấy vậy mặt thất sắc, liền biến thành đám mây lành tan đi.

Lúc này hạ quanh ra xung quanh nhìn, các bóng trắng là các ma phật tử trong nghĩa địa này chẳng biết từ khi nào đều đã bu xung quanh mà xem sự lạ.

Hạ cất tiếng hỏi lớn:

“khu mồ này tên gì?”

Một bóng trắng trả lời:

“đây là nghĩa địa nhà phật xây cho chúng tôi gửi xác nơi đây, tên là địa thanh giới.”

“vậy hầm mộ này thờ ai? Có đúng lời thần đó nói hay không?”

“chính đúng như thế ạ, mộ này thờ nữ pháp sư tên là thanh trúc kinh tâm, đã có ở đây rất lâu khi chúng tôi còn sống cho tới khi chết đi được chôn ở đây đã nhiều năm nay thì đều đã thấy mộ ở đó rồi, mộ ngày nào cũng có người cắm hoa đốt nhang, hương khói rất thịnh.”

“mộ đã bị phá kết giới trấn yểm, tức là linh lực trong mộ đã thoát ra ngoài, các vong có biết không?”

Các vong trả lời:

“chúng tôi không biết việc đó. Chỉ nghe Trấn yểm của mộ này được đức thánh trần* trấn lại để át ma quỷ bên trong, ma quỷ đó đã hòa với pháp sư kinh tâm thành một nên người ta vừa thờ vừa sợ, người ra thắp hương chỉ toàn là sư và các thầy pháp sư chứ chẳng có người thường, không ai dám mở trấn yểm đó ra.”

(*hưng đạo đại vương trần quốc tuấn.)

Hạ nghe xong lấy làm lạ lắm, ma quỷ sao đủ sức mà mở các trấn yểm này, nếu bén mảng đến thì thần kia sẽ đuổi đi ngay, kẻ mở trấn yểm phải là sư có căn cơ thì thần mới đi để cho nó tùy ý hành động.

Rồi hạ quát lớn:

“nay ta vào trong mộ xem sự tình, kết giới này đã mất thì vong bị phong ấn bên trong hoặc là còn trong đó, hoặc đã bỏ đi đều là điềm không an ổn cho khu này…các vong và các linh thú trong khu này nghe đây, chừng nào ta chưa bước ra thì không được để ai vào, nếu để người thường vào thì các ngươi hiện thân mà hù dọa cho họ đi, có nhớ lời ta dặn chăng?”

Cả các vong và các thú đều nghe hiệu lệnh mà lần lượt tan đi hết.

Lúc này hạ manh tay xé toang hai mảnh bùa trắng dán trên cửa mộ, rồi đạp thẳng vào cửa mộ thiêng, tức thì cửa mộ bật ra ngay, hóa ra mộ này không có khóa, bất kì ai chỉ cần dám gỡ bùa phong ấn đều có thể vào được, vậy mà đã tồn tại từ đời nào đến nay được thì cũng lạ. ai mở phong ấn? và quái nào bên trong thoát ra mà thần canh mộ không biết? hoặc là có biết mà phải giả lơ đi, hoặc là sợ uy vong bị trấn yểm mà phải theo hiệu lênh của nó?

Cửa mộ vừa bật ra thì một luồng khí lạnh đến ghê người lao thẳng vào mặt hạ.

Hạ thấy lạnh rùng mình khắp thân, nhưng vẫn không sợ hãi, tay cầm chiếc bật lửa trên bát sứ để dùng để thắp hương cho mộ theo, rồi can đảm bước vào trong mộ, không quên khép cửa mộ lại để tránh sinh nghi.

Thật là,

ở trên cao, bồ tát độ vong ma

hầm mộ thiêng, nghìn năm còn điềm lạ.