Chương 38

Chương 38.



mọi người trong chùa thanh trúc đã có nhiều buổi nói chuyện, đã ngồi cùng nhau bàn bạc và làm sáng tỏ ra nhiều điều, nhưng đêm ấy có lẽ là đêm mấu chốt khám phá ra bản tướng của yêu quỷ…

Hạ đã nói tất cả những sự việc diễn ra vào tối mẹ mất đó và kể lại về những điều thủy thần đã nói với mình cho phương, thầy đại trí, thầy nhất nguyên và thầy nhất quang cùng nghe, phương cũng kể những lời chị hương đã dặn ở chỗ gốc dừa trên cầu cho mọi người cùng luận bàn.

Thầy nhất quang kết luận:

“có thể chắc chắn rằng người thường không thấy được nó”

Mọi người đều tán đồng.

Quỷ thần đó đã lộ diện, nhưng người bình thường hoặc kể cả là huyền nhân, chỉ cần đang còn mang xác người thì dù có căn cơ sâu đến đâu như thầy đại trí hoặc phương cũng đều chẳng nhìn được hình hài nó, chỉ có những người thuộc chốn âm dương như thủy vi đạo kính và vong hồn chị hương, cùng chúng quỷ tột khốc, chúng ngạ quỷ mới có thể nhìn thấy được.

Hương nói rằng khi đến gặp hương quỷ thần đó là dạng cô gái tóc dài trông không rõ mặt, có đeo cung tên, có sáu cánh tay, một cánh tay giữ sợi dây xích trói một con quỷ khác xưng tên là càn thát bà đánh nhau với tột khốc, nhưng khi hiện ra gặp phương để đàm phán về việc cứu hạ thì nó lại chỉ có năm tay, một tay trói dạ xoa, thế tức là sau khi đánh nhau với tột khốc, một tay nó đã mất đi…

Theo lời rồng thủy vi đạo kính nói với hạ về nhân dạng của quỷ thần đó khi xuống lòng sông gặp rồng, một tay cầm xích trói con đại bàng, rồi nhân dạng là một cô gái áo trắng tóc dài như thế, như thế… thì thấy lại cũng trùng khớp với lời chị hương.

vậy thì tuy không nhìn thấy bản tướng nó, nhưng dựa vào ngần đó dữ kiện, năm người lại bàn bạc với nhau, hồi lâu thì thống nhất rút ra được ba điều.

thứ nhất, bản tướng của nó là một nữ quỷ, có nhiều cánh tay, mỗi tay đều có xích kim lưu màu vàng, xích đó lại khống chế được một quỷ thần rất mạnh.

Thứ hai, cứ một quỷ thần chết đi thì nó sẽ mất đi một cánh tay cầm xích kim lưu.

Thứ ba, khi gọi ra dạ xoa nó vẫn còn năm tay, dạ xoa chết đi nó còn bốn tay, đại bàng ca lâu la cũng đã chết, vậy có nghĩa là hiện giờ nó chỉ còn ba cánh tay…

Những bản tướng quỷ thần mà phương đã nhìn thấy của nó gồm có con phi nhân khẩn na la, một con mãng xà tự xưng là ma-hầu-la-già, một con dạ xoa, một con đại bàng ca lâu la, chị hương lại nhìn thấy một con càn thát bà, vậy là đã có năm cánh tay bị mất.

Cộng với ba cánh tay còn lại chưa bị mất, vậy là ban đầu nó phải có tám tay chứ chẳng phải chỉ sáu, khi gặp chị hương thì nó đã mất hai tay rồi, hai tay đó có thể ứng với khẩn na la và mãng xà đã chết trước đó từ lâu trong các giấc mộng của phương.

Mọi người đều đang trầm ngâm nghĩ ngợi, mỗi người đều theo đuổi một suy nghĩ riêng, chân tướng về con yêu quỷ đó đã dần hé lộ ra.

rồi hạ chợt lên tiếng:

“các thầy chắc chẳng để ý xem, chứ con thấy có điểm lạ chắc không ngẫu nhiên mà thế, cả năm quỷ thần từng lộ diện đều thuộc về giống nòi của bát bộ chúng, mỗi con ứng với một loài… chính chúng đã tự xưng danh hiệu ra, con đã tìm hiểu nhiều sách kinh thì thấy mô tả trong các kinh đại thừa về bát bộ cơ bản đều tương tự nhân dạng của chúng như thế.”

Các sư đều cùng ồ lên kinh ngạc, chỉ riêng có sư nhất nguyên là im lặng nhìn hạ, sự thông minh của nó chùa này chẳng ai còn lạ gì, nhưng vẫn phải là rất tập trung bình tĩnh mới nghĩ ra được sự liên quan ấy trong thời điểm này.

Thầy nhất quang vỗ tay lớn rồi cười nói hớn hở:

“tiểu đệ ta nói chẳng sai, con quỷ thần nữ đó lại có tám tay, như thế chẳng ứng với bát bộ chúng là gì? Bát bộ đều là chúng quỷ thần rất mạnh, nếu không phải xích kim lưu thì làm sao mà trói được chúng nó?”

Mọi người đều gật gù đồng tình thán phục.

“nhưng bây giờ mới là việc quan trọng nhất, con yêu nữ đó có bản tính gì? Là loài gì mà lại bắt được cả bát bộ?”- bấy giờ phương mới lên tiếng.

Những người trẻ đều nhìn nhau trầm ngâm thắc mắc, điều này nằm ngoài hiểu biết của họ, rồi không nói mà cùng ý nghĩ, tất cả quay hướng về nhìn thầy đại trí.

Bấy giờ sư mới chậm rãi mà giảng cho chúng đệ tử:

“điều khiển được xích kim lưu thì chẳng phải là quỷ thần bình thường, chỉ có thể là một trong các vị sau: hoặc là các vị thánh có âm đức sâu dày, hoặc là bậc chân tu nhưng ít nhất cũng phải chứng được quả vị thứ hai trở lên trong tứ thánh quả*, hoặc là các ma vương ở các cõi lớn, hoặc là các diêm vương đại đế cai quản dưới các tầng địa ngục, hoặc là hàng vua của các chủng loại đó trong bát bộ, hoặc là hàng vua cai trị các cõi trời sắc giới trở lên, hoặc là hàng thanh văn, duyên giác*, hoặc là hàng bồ tát, hoặc là đến như lai và các vị phật từ quá khứ tới vị lai tiền hay hậu kiếp đều có công lực đó, hoặc là các pháp sư khổ tu lâu năm đã chứng được các quả vị thánh…”

(*chúng đệ tử của đức thích ca mâu ni phật)

Mọi người nghe xong đều kinh hãi hoang mang, đó đều là các bậc lớn, nếu quỷ kia là một trong số họ thì làm sao mà chống lại được đây?

Hạ hỏi:

“có cả hàng pháp sư, vậy thậm chí cả con người cũng có phép đó hay sao?”

Sư đại trí đáp:

“đúng vậy, nhưng thế giới ta bà loài người hằng hà sa số, người luyện được đến như thế thì cũng đã chứng được hết các quả vị phật hoặc bồ tát mà về tây phương lâu rồi, việc gì phải chìm nổi nơi nhân gian mà trêu người…”

Phương nói;

“đúng vậy, nhưng nó không thể về tây phương vì không thực hiện được yêu phép của mình, cũng không bao giờ ra mặt mà chỉ sai quỷ thần bát bộ, hoặc là ép các loài ma quỷ khác thực hiện ý đồ của mình, thì có thể thấy rằng nó vướng trở lại ngại nên không thi triển được hết công phu ra, con ngờ rằng là vì nó không có thân xác, căn cơ nó lớn như thế thì nó cũng chẳng thể tùy ý mà nhập vào người hoặc súc sinh bình thường, mà cứ hễ nhập vào lại bị dính vào căn của người đó rất khó thoát ra, không thể dễ dàng đi lại giữa các người bị nhập, nếu vy không phải gặp được lúc bồ tát xuất hiện, chưa chắc nó đã tha cho cô ấy, nghi lễ nó muốn con làm cho nó chính là để nó khôi phục lại hình hài, khi ấy mới có thể tùy ý tự tại mà thi triển thần lực ma lực của nó.”

Mọi người đều gật đầu không nói.

Đại trí nhìn phương gật gù, suy luận đó rất đúng, đúng là đã nắm bắt được ý đồ của đối phương.

Thầy nhất nguyên nãy giờ lặng im, bây giờ mới lên tiếng:

“vậy tại sao ta lại không thực hiện lễ đó cho nó, nếu như oai lực cỡ đó thì chẳng phải bậc thánh cũng là bậc thần, chẳng lẽ nó lại hại một con người bình thường sao? Biết đâu đúng như nó nói, chỉ cần lễ đó xong là nó sẽ đi không quấy nhiễu nữa?”

Hạ kể từ ngày lên chùa đêm nào cũng chong đèn đọc sách tới tận rất khuya, ngày học rồi luyện tập tới 15, 16 tiếng, chỉ cốt mong nắm vững sự việc, bắt được quỷ trả thù cho mẹ, nghe sư nói bừa vậy không chịu nổi thì bực mình lớn giọng nói át đi ngay:

“sao mà tùy ý vậy được? tôi đây đọc bao nhiêu sách, thức trắng cả đêm, miệt mài tìm hiểu rốt ráo rồi mới nói ra, còn huynh sao dám nói bừa? sư huynh chẳng biết rằng phàm là nghi thức tế, dù là nghi thức tế quỷ hay nghi lễ tế thần, dù là từ quá khứ hay trong hiện tại,cái giá phải trả đều là tính mạng của kẻ hiến tế hay sao? Huynh nên nhớ cho đây là tế thần chứ chẳng phải là lễ cúng bái kêu cầu thông thường, dù là lễ tế vong ma ngạ quỷ căn cơ thấp kém còn đang phải có rượu thịt hoa quả đề huề, cho đến bậc thần giữ núi giữ miếu còn phải có xác sống máu tươi của súc sinh, thậm chí trong thời phật quá khứ còn có những thần đòi tế gái trinh, đòi tế máu nóng, đầu người…nói gì tới đây là tế một linh lực có oai lực lớn như thế, làm sao mà giữ được mạng? có thể vẫn giữ được mạng cũng nên, đệ cũng chẳng dám chắc nhưng đàng này còn chưa biết nó là giống gì? Là thần hay quỷ? Còn huynh bảo nó không thèm hại người à? Nó lừa gạt phương bao nhiêu lần như thế là đã khiến người có trí phải nghi ngờ rồi, loài này gϊếŧ người đâu có ghê tay? Đêm nọ nó tàn sát quỷ thần ở sông, gϊếŧ bao nhiêu cả người cả quỷ, ngay cả mẹ tôi cũng chết, một loài như thế mà huynh nghĩ rằng nó chỉ cần tế cho là sẽ bỏ mà đi sao? Nếu bỏ đi dễ thế thì ai chả tế nó được, hà cớ gì cứ nhất nhất phải là phương? Huynh theo thầy đã lâu làm việc phật sự mà những điều như thế không tìm hiểu cho kĩ lại xúi các đệ làm bừa, huynh muốn đẩy phương vào chỗ chết à?”

Hạ nói luôn một tràng. Mọi người đều tái cả mặt kinh ngạc, một phần vì sự hiểu biết của hạ về nghi lễ và tính chất các nghi lễ, phần khác là do thái độ gay gắt của hạ.

Sư nhất nguyên tức lắm, mặt hầm hầm chẳng nói năng gì, biết mình không phải nhưng cũng là anh, hạ nói như thế thực là quá lời.

Thầy đại trí thấy không khí căng thẳng liền lên tiếng trấn an:

“khen cho hạ con kiến thức rất sâu, phân tích rất đúng, nhưng huynh con cũng chỉ là góp ý, dù có sai quấy thì thôi con là phận em cũng không nên nói huynh con vậy.”

Hạ đứng phắt dậy trỏ mặt nhất nguyên mà rằng:

“làm việc âm dương, mỗi hành động nhỏ đều liên quan đến mạng người, hành sự phải cẩn thận nghiêm trang, tìm hiểu cho thấu đáo. Thế mà nay hắn làm việc tắc trách… Thầy còn nhớ Cái lần con đã phá miếu thủy thần, thầy đã quở con hành sự lỗ mãng thế nào không? Mà nay thầy lại bênh cho hắn? chuyện đêm đó con đã nghe nói kể lại cả, nếu không vì hắn hấp tấp cứ giục vội thầy đi ra sông, thì yêu ma nào có vào được nhà? Mẹ tôi đâu có chết?”

Nói rồi mắt lửa đỏ phừng phừng, nhìn thẳng mặt sư, sư rùng mình ngó đi chỗ khác.

Rồi hạ đứng lên chào thầy xong bỏ đi thẳng.

Thầy đại trí nghe nói thế, tự bản thân cũng thấy áy náy có lỗi.

Mọi người ai nấy đều thương cảm, cho là vì quá thương nhớ mẹ nên hành động như thế, cũng không ai chấp.

Từ đó hai người huynh đệ cùng chùa nhưng chẳng nhìn nhau.

Thật là,

Ma dùng mưu, người phải dùng trí

Lửa hận lên, mắng át cả tăng