Ngụy – Thanh Long năm thứ ba, Thục Hán – Kiến Hưng năm thứ mười ba, Ngô – Gia Hòa năm thứ tư.
Thiên hạ lại trở về với trạng thái hòa bình ngắn ngủi.
Một năm này, giữa Tam Quốc đều không phát sinh đại sự gì. Nếu nhất định phải tìm chút chuyện mà nói, đó là sau khi vào thu, giữa hai nước Ngụy – Ngô tiến hành một lần giao dịch.
Dường như bị Tư Mã Ý lây bệnh, từ trên xuống dưới nước Ngụy đều nổi lên phong trào mê đắm châu báu Giang Đông. Vào thu, sứ giả Ngụy quốc đi đến Kiến Nghiệp, đề xuất thỉnh cầu lấy ngựa đổi lấy châu báu phỉ thúy.
Có vài đại thần tỏ vẻ phản đối, cho rằng phỉ thúy châu báu chính là bảo vật của Giang Đông, há lại dễ dàng cho người được. Nhưng Tôn Quyền ngẫm nghĩ, cuối cùng vẫn nói: “Châu báu phỉ thúy đều là vật chết, cũng là những thứ trẫm không cần. Có thể sử dụng những vật chết này đổi lấy chiến mã, cớ sao lại không làm?”
Lúc hắn nói câu đó, tôi rõ ràng thấy từ trên người hắn một loại ánh sáng hào quang khẳng khái mà sáng ngời. Tôi hoảng hốt nghĩ, bao nhiêu năm nay, cũng từng có ngăn cách, cũng từng có tranh chấp, cũng từng nhìn thấy vẻ ảm đạm thuận theo thiên mệnh dần dần diễn sinh ra trên người hắn, nhưng hắn vẫn là vị quân vương mà tôi thán phục nhất, nhiều năm như vậy, vẫn chưa từng thay đổi.
Cứ như vậy, một tháng sau, sứ giả Ngụy quốc mang theo hơn một ngàn con chiến mã đến Kiến Nghiệp.
Người đi theo rất nhiều, hễ là những vị quan quân có một chút tiền bạc, cũng hy vọng mình mua được chút châu báu về bán lại giá cao hoặc để bảo tồn. Xưa nay, Tôn Quyền không thích sưu tầm châu báu, cứ như vậy, kho tích trữ trong cung vậy mà lại không đủ. Chúng tôi thương lượng, quyết định triệu gọi những thương gia buôn bán châu báu ở dân gian đến Kiến Nghiệp, tự do giao dịch cùng quân Ngụy.
Hắn biết tôi xưa nay ở trong cung rảnh rỗi nhàm chán, bèn giao chuyện này cho tôi. Đó là một nhiệm vụ thú vị lại không khó làm, tôi cũng vui vẻ nhận. Tôi sai người dựng một hội chợ ở ngoại thành Kiến Nghiệp, lại đưa tin cho các thương nhân và những ngư dân thường xuống biển lặn tìm châu ngọc, để cho họ mang đồ đến chợ giao dịch cùng quân Ngụy. Hiệu quả so với tôi tưởng tượng rất tốt, trong lúc nhất thời, hội chợ ngoại thành Kiến Nghiệp, người đông như nêm cối, tiếng rao bán cò kè mặc cả không dứt bên tai.
Đã lâu không trải qua trường hợp vụn vặt mà náo nhiệt như vậy, đúng là một liều thuốc cho cuộc sống ảm đạm, thấy cũng không đến nỗi nào. Mỗi ngày, tôi đều cải trang đến đó, ngồi ở một góc chợ, châm một bình trà, nhìn bọn họ cò kè mặc cả. Trời thu ánh mặt trời ấm áp, tắm trong ánh mặt trời, tôi cảm thấy có thể ngồi cả ngày ở đây cũng được.
Có một ngày nọ, một chiếc xe ngựa khiến cho tôi chú ý. Đó là một chiếc xe ngựa bắt mắt, trang sức xa hoa đến cực điểm, cửa xe buông xuống lớp sa mỏng, người trong xe nhất định là một người phụ nữ. Xe ngựa chậm rãi lăn bánh giữa dòng người, gặp được một sạp hàng tốt, bèn dừng lại. Sau đó thấy người hầu đi cạnh xe đi tới, đem toàn bộ châu báu trong sạp đều mua hết. Ra tay rộng rãi như vậy, cho dù là một hầu tước, cũng rất khó làm được.
Tôi có hơi tò mò, ngăn một quân Ngụy đi ngang qua hỏi người trong xe kia là ai. Hắn nói cho tôi biết, trên xe là Nhậm Thành vương phi. Nghe nói tâm tình sầu muộn, nên đến Giang Đông mua sắm giải sầu.
Có thể ra tay rộng rãi như vậy, cũng chỉ có thể là Vương phi. Nhưng tôi nhớ mang máng, Nhậm Thành chỉ là một vùng đất phong rất tầm thường của Ngụy quốc, Nhậm Thành vương là cùng họ nhưng khác chi, huyết thống cách rất xa cùng Ngụy đế Tào Duệ. Tiêu tiền như như vậy thế kia, thấy cũng không hợp tình lý lắm.
Lúc còn đang nghĩ như vậy, xe ngựa kia đã đi qua người. Tôi không khỏi đứng lên, cố gắng muốn nhìn rõ người trong xe rốt cục là loại nhân vật nào. Nhưng cách một tầng sa kia, tôi chỉ có thể mơ hồ nhìn thấy bóng dáng của nàng, không cách nào thấy rõ gương mặt của nàng.
Nhưng ngược lại, nàng ta đã phát hiện tôi đang nhìn nàng. Xe ngựa liền dừng lại cách chỗ tôi không xa, cách lớp vải sa kia, tôi có thể cảm giác được ánh mắt nàng dừng trên mặt mình. Một lát sau, tôi thấy rèm cửa hơi hơi vén lên, nàng ta nói gì đó với người hầu bên cạnh, người hầu kia liền đi đến chỗ tôi.
“Xin hỏi, là Ảnh phu nhân phải không ạ?” Người hầu kia đi đến trước mặt tôi, hỏi.
Tôi gật đầu.
“Vương phi lệnh cho tại hạ chuyển cáo Ảnh phu nhân, Vương phi đêm nay ở khách sạn thiết yến chiêu đãi Ảnh phu nhân, làm phiền Ảnh phu nhân đại giá.”
“Vì chuyện gì?” Tôi không khỏi nghi hoặc hỏi.
“Ảnh phu nhân tới khắc biết.” Hắn nói.
Buổi tối, tôi vẫn đi dự tiệc.
Tại một khách điếm chuyên môn mở cho quân Ngụy, trong một mảnh sân, không hề tốn sức tôi đã tìm được sân viện của Nhậm Thành vương phi. Trước cửa viện, quân sĩ đứng canh mang dáng người anh vũ hùng tráng nên có của người lính, trong viện phòng ốc đèn đuốc sáng trưng.
Một thị nữ ăn mặc xinh đẹp trang điểm tinh xảo nghênh đón tôi đi vào. Một khắc bước vào phòng kia, tôi liền cảm thấy hoa mắt. Trang sức trong phòng xa hoa đến cực điểm, số châu báu lúc mua ban sáng bày biện đầy phòng. Mà ngồi sau đống châu báu đó, là Nhậm Thành vương phi.
Rốt cục tôi đã thấy rõ gương mặt nàng. Đó là một người phụ nữ tầm 30 – 40 tuổi, mặc quần áo tơ lụa màu băng lam (màu xanh lam của băng), thân hình có chút gầy yếu. Nàng thích thu mua châu báu như thế, nhưng ngược lại toàn thân nàng từ trên xuống dưới không hề mang theo trang sức nào. Gương mặt dưới mái tóc đen trông có vẻ sạch sẽ thanh lịch.
“Ảnh phu nhân khỏe chứ?” Nàng khẽ cười nói.
Ngữ khí quen thuộc đến thế, trong nháy mắt làm tôi có chút thất thần. Tôi bắt đầu mơ hồ cảm thấy, gương mặt sạch sẽ thanh lịch này, có hơi giống như đã từng quen biết.
Lời nàng nói như đã khẳng định hoài nghi của tôi, nàng còn nói: “Ta ở trên chợ, liếc mắt một cái đã nhận ra Ảnh phu nhân, vậy mà Ảnh phu nhân không nhận ra ta. Ảnh phu nhân vãn còn trông như trước, mà ta đã già đi rồi.”
Tôi vừa cẩn thận quan sát mặt nàng ta. Cho dù đã hằn in dấu vết năm tháng, nhưng gương mặt kia vẫn sạch sẽ, thanh tú làm cho người ta nhớ tới đóa hoa lài bung nở trong nước. Nàng ta ngồi đó lẳng lặng nhìn tôi, ánh mắt trông dịu ngoan như chú nai.
Rốt cục tôi cũng nhớ ra, mỉm cười nói: “Tố Hinh, cô vẫn khỏe chứ?”
(chắc cả nhà không nhớ, Tố Hinh là kỹ nữ, mẹ của Tôn Đăng, trước kia gởi Tôn Đăng lại cho Vân Ảnh nuôi)
Một khắc đó, thời gian hai mươi năm ngưng kết thành cơn gió, nhẹ nhàng vụt qua bên người.
Nàng kéo tay tôi, để tôi ngồi xuống cạnh nàng. Chúng tôi nhìn nhau, trong lòng đều ngập đầy cảm khái, lại không biết nên bắt đầu nói từ đâu.
Cuối cùng vẫn là tôi mở miệng trước, tôi nói: “Thật không ngờ, cô đã trở thành vương phi Nhậm Thành.”
Nàng nói: “Còn phải đa tạ cô.”
“Vì sao muốn đa tạ ta?” Ta hỏi.
“Năm đó, đã sắp xếp… sau chuyện Đăng Nhi, ta vốn nghĩ, đời này cũng chỉ còn có thế. Nhưng chính cô đã nói với ta, ta còn trẻ tuổi, cuộc sống còn có thể làm lại từ đầu. Sau đó ta tìm về quê nhà, tìm về người nhà. Lại không bao lâu, có một người tên là Tào Giai tới cầu hôn. Gia cảnh hắn không tệ, người cũng tính tình thành thật, ta liền gả cho hắn. Không ngờ tới hắn còn cùng hoàng đế có chút quan hệ huyết thống, sau liền được sắc phong làm Nhậm Thành vương.”
“Cô vẫn sống tốt chứ?”
Nàng nói: “Hắn rất tốt với ta.”
“Vậy thì thật tốt, tôi mừng cho cô,” tôi vui mừng cười nói, “Con cái chắc đã đề huề rồi chứ?”
Vừa hỏi tới vấn đề này, trên mặt nàng liền thêm vài phần đau đớn. Hồi lâu, nàng chậm rãi nói: “Có một đứa con gái, đã gả đi xa; hai năm trước có một đứa con trai, hiện không còn.”
Tôi không khỏi thương tiếc nắm chặt tay nàng, an ủi: “Nén bi thương.”
“Không,” nàng thảm đạm cười rộ lên, lắc đầu nói, “Con ta, nó không chết.”
“Vậy sao lại nói là không còn?” Tôi lấy làm lạ hỏi.
Nàng nhìn tôi, đoạn nói: “Hoàng đế không có con, không biết vì sao coi trọng con trai của ta, liền ôm thằng bé vào trong cung nuôi. Tuy rằng thằng bé còn sống, nhưng cả đời này, chỉ sợ ta rất khó gặp lại nó.”
Lặng người một chút, nàng còn nói: “Lúc người trong cung đến đón nó đi, ta không nguyện ý, dùng cái chết đe dọa. Nhưng trượng phu nói với ta, hoàng đế đã muốn, chúng ta không thể cự tuyệt. Sau đó dường như trong cung muốn bù lại cho ta, liên tục ban đến tài vật cho nhà ta. Ta ở Nhậm Thành nhớ con, nhớ đến đau quặn cả lòng. Trượng phu bảo ta theo sứ giả đến Giang Đông giải sầu. Vì thế ta mới đến đây, ta muốn tiêu xài hết số tiền đó… số tiền bán con mà có.”
Giọng nói của nàng thống khổ, lòng tôi cũng trở nên quặn đau, tôi chỉ có thể ăn ủi: “Ngươi còn trẻ, còn có thể sinh thêm một đứa khác.”
“Không,” nàng cười thảm lắc đầu, “Đời này, ta không có duyên phận với con trai. Trước kia Đăng Nhi đã như thế, nay Phương Nhi… cũng như vậy.”
“Phương Nhi?” Tôi không khỏi kinh ngạc hỏi, “Tên thằng bé sao?”
“Đúng vậy,” nàng nhìn tôi nói, “Nó tên Tào Phương.”
Tào Phương. Tôi bùi ngùi thật lâu, sau cuối cùng không nhịn được nói với nàng: “Con của ngươi, tương lai sẽ làm hoàng đế.”
“Ai thèm quan tâm chứ?” Nàng lạnh nhạt nói.
Trong nháy mắt, tôi có chút hoảng hốt. Người phụ nữ xuất thân thanh lâu này, người phụ nữ đã từng vì không có cơm ăn mà ở trên đường hỏi xin tôi. Thế nhưng hai đứa con trai của nàng, một là Hoàng thái tử nước Ngô, một là hoàng đế đất Ngụy.
“Đăng Nhi, nó có khỏe không?” Nàng hỏi tôi.
“Nó tốt lắm, hiện tại rất có triển vọng.” Tôi ngẫm nghĩ còn nói, “Hiện tại nó đang ở Vũ Xương, nếu cô muốn gặp nó, ta có thể an bài.”
“Không,” nàng dứt khoát cự tuyệt nói, “Vẫn không nên gặp thì hơn.”
Tôi ngẫm nghĩ một lúc, cũng hiểu lời mình nói có chút không thực tế, không khỏi lại nhìn nàng, nói: “Đăng Nhi hiện tại là Thái tử nước Ngô.”
“Ta biết,” nàng nói, “Nhưng cô không cần nói chuyện này với ta. Ta vẫn mãi nhớ tới Đăng Nhi, nhớ ta còn có một đứa con trai tên Tôn Đăng. Nhưng bấy năm qua, chưa bao giờ ta nghĩ tới việc ta là mẫu thân của Thái tử nước Ngô. Chuyện đó không có chút ý nghĩa nào đối với ta.”
Nghĩ một lúc, nàng lại nói: “Ta thừa nhận ta đến Giang Đông, phần nhiều là vì nó. Ngươi nói ta còn trẻ, nhưng sinh mệnh, thoạt nhìn thì dài lâu… Kỳ thực đã đến lúc kết thúc rồi. Cho nên lần này đến Giang Đông, cũng có thể là một lần cuối cùng. Bản thân ta cũng rõ ràng trong lòng, không có khả năng gặp được nó. Chỉ là muốn đến quốc gia của nó nhìn xem, đến địa phương trước kia nhìn xem, cũng không sao.”
Giọng điệu như vậy, giống như những lời sắp từ biệt nhân thế vậy. Trong lòng tôi không khỏi động một cái, càng nắm chặt tay nàng hơn, nói: “Tố Hinh, nhân thế vẫn luôn gian khổ, đừng lưu tâm quá.”
“Ta biết, đây cũng là số mệnh của ta,” nàng nói, nhưng vẫn trào phúng mà cười rộ lên, “Ngẫm lại bản thân cũng thật đáng thương. Lúc sinh Đăng Nhi thì là một kỹ nữ, nhưng mẫu thân của Đăng Nhi phải là một Hầu phi. Đợi đến khi ta đã là Vương phi rồi, nhưng mẫu thân của Phương Nhi lại phải là hoàng hậu. Ta dù có thế nào cũng vẫn không xứng đáng.”
Tôi nói: “Xuất thân của ta càng ti tiện hơn. Nhưng ta vẫn mặt dày mày dạn ở lại bên cạnh Tôn Quyền đó thôi.”
“Cô còn nhớ rõ à.” Nàng mỉm cười nhìn tôi.
“Lúc cô đi ngang qua Lư Giang, Thúy Vi lâu trong thành Lư Giang còn không?” Tôi đột nhiên không đầu không đuôi hỏi.
“Vẫn còn, cũng giống như Phượng Hoàng lâu vậy, vẫn rất náo nhiệt, có điều các cô nương đều rất bình thường.”
Nàng trả lời như vậy. Chúng tôi không khỏi nở nụ cười, tựa như tâm linh tương thông, lại dấy lên một cảm giác như đã cách mấy đời.
Lúc cáo biệt, tôi có chút lưu luyến không rời. Đi được hai bước, lại quay đầu nhìn nàng. Nàng vẫn đứng ở nơi đó, ngay cửa, ánh đèn rọi lên mặt bình tĩnh mà tịch liêu. Nàng vẫy tay ý bảo tôi đi, tôi liền quay đầu đi vài bước, lại nhịn không được quay đầu nhìn nàng. Cứ như vậy đi vài bước lại ngừng một chút, lại đi vài bước, lại ngừng một chút, mãi cho đến khi bóng dáng của nàng hoàn toàn mất hút, tôi mới không quay đầu nữa.
Đi chầm chậm trên đường trở về cung, tôi không khỏi bắt đầu cảm thán nhân thế kỳ diệu.
Thái tử nước Ngô cùng hoàng đế tương lai của Ngụy, thế nhưng lại là anh em cùng một mẹ sinh ra, mà mẹ của bọn họ, lại chính là một người phụ nữ xuất thân thanh lâu, chưa bao giờ được lưu trên sách sử dù chỉ một bóng dáng.
Thế nhưng, ai sẽ nghĩ đến điều đó chứ.
Ngay cả chính bản thân nàng cũng không thường nhớ tới.