Chương 6: Lữ Nhất hoá trang lên đài

Năm thứ hai, từ phương bắc truyền đến một tin tức không mấy quan trọng: Nhậm Thành vương phi ra ngoài mất tích.

Có người nói nàng nhảy xuống nước tự sát, cũng có người nói nàng tìm một nơi hẻo lánh xuất gia.

Nhưng vô luận là tự sát hay xuất gia, Tố Hinh đã hoàn toàn biến mất trong sinh mệnh của tôi.

Tôi vẫn sẽ nhớ tới nàng ấy. Nhưng trong thâm tâm biết rõ sẽ không bao giờ gặp lại nàng. Nếu nói lịch sử là một khúc ca hùng tráng có phần hơi quá thổi phồng, thì chúng tôi chỉ là những khúc nhạc đệm trong đó, chợt lóe qua, sau đó vĩnh viễn không lập lại nữa.

Pháo hoa sẽ tắt, sênh ca sẽ ngừng. Cho nàng cũng tốt, cho tôi cũng không sao, sinh mệnh này, nhìn như còn rất dài, kỳ thực đã kết thúc.

Năm đầu Xích Ô, Bộ phu nhân qua đời. Năm đó nàng đã 47 tuổi. Bốn mươi bảy tuổi ở hiện đại, cũng không phải là một số tuổi già. Chỉ là nàng nằm trên giường bệnh, đã tiều tụy đến không ngờ.

Nhiều năm qua, ở chung một tưởng viện, nhưng vẫn chưa từng có thâm giao, vẫn phảng phất như người dưng. Nhưng lúc này đây, khi nhìn thấy nàng, tôi còn cảm thấy không đành lòng. Nắm tay nàng, nửa ngày không thốt được một lời. Trong lòng lưu chảy toàn là đau khổ.

Nàng từ từ tỉnh lại, thấy tôi ngồi bên sập, trên mặt cũng toát ra vài phần kinh ngạc đến. Một lúc lâu, nàng mới mở miệng nói: “Sao lại là ngươi?”

“Ta đến thăm ngươi…” Tôi nhẹ nhàng nói.

Nàng rút tay về, sau đó nói: “Đã phiền ngươi lo lắng.”

Ngữ khí vừa nhẹ nhàng bâng quơ, vừa không hề cảm kích, cũng không xem là vô lễ.

Tôi nói: “Ngươi không nên suy nghĩ nhiều quá, phải dưỡng bệnh cho tốt.

Nàng nhàn nhạt nói: “Cám ơn.”

Tôi nói: “Ngươi muốn nghỉ ngơi một mình, ta không quấy rầy nữa.”

Nàng không có ý giữ tôi lại, tôi liền đứng lên rời đi. Đi tới cửa, nàng gọi tôi lại.

“Ảnh tỷ…” Nghe thấy thế, tôi rất kinh ngạc, bao nhiêu năm qua, đây là lần đầu tiên nàng ta gọi tôi như vậy.

Tôi chỉ đứng ở đó, chờ nàng ta nói tiếp.

“Ngươi có biết hay không, năm đó, người làm ngươi bị thương, kỳ thực là ta sai sử.”

Năm đó, năm đó là năm nào? Tôi thảng thốt nhớ lại, lại cảm thấy giống như là một chuyện đã qua thật lâu. Lúc đó, tôi cũng đoán người làm tôi bị thương là nàng. Nhưng lúc bấy giờ, tôi không hề để ý, thì hiện tại làm sao lại để ý được?

Tôi chỉ cười nhẹ.

“Ngươi thật sự là người kỳ quái,” nàng nhẹ nhàng nói, “Ngươi có vẻ cái gì cũng không để ý… Nhưng cho dù ta đấu như thế nào, cũng đấu không lại ngươi…”

“Phải chăng nhiều năm qua, ngươi vẫn cảm thấy đang âm thầm đánh cờ cùng ta?” Tôi đột nhiên hỏi như vậy.

“Đúng vậy…” Nàng lẳng lặng nhớ lại, “Từ nhỏ ta đã quen với cuộc sống như thế. Trước ngươi, ta chưa từng thua trước một ai. Khi ấy Từ phu nhân được sủng ái cỡ nào, nhưng chính ta đã khiến cho bệ hạ biếm nàng ta đến Ngô, cũng là chuyện dễ dàng.”

“Nhưng kỳ thực, ván cờ giữa hai chúng ta, không ai thắng.” Tôi nhìn vào mắt nàng, nói một câu như vậy.

Nàng kinh ngạc ngẩng đầu lên nhìn tôi, chúng tôi nhìn nhau thật lâu, sau đó cùng bật cười. Tiếng cười kia, phảng phất như bao hàm tất cả thống khổ trong cuộc sống.

Ba ngày sau nàng qua đời. Cái chết của nàng vẫn đả động được đến tâm của Tôn Quyền, hắn vì nàng rơi lệ, vì nàng viết điếu văn. Ngay cả bách quan cũng dâng tấu, thỉnh cầu truy tặng danh hào hoàng hậu cho nàng.

Lúc còn sống, nàng vẫn luôn muốn đội lên chiếc mũ miện của Hoàng hậu kia, sau khi chết, rốt cục nàng cũng được đội. Nàng sẽ mặc vào lễ phục Hoàng hậu, yên tĩnh ngủ dưới nền đất âm trầm lạnh băng.

Nhưng những năm đầu Xích Ô, sự kiến rúng động Giang Đông, không chỉ mỗi chuyện Bộ phu nhân qua đời mà thôi. Thậm chí so sánh với một sự kiện khác, chuyện Bộ phu nhân qua đời cũng có vẻ không năng không nhẹ.

Sự kiện kia, đó là “Lữ Nhất hoá trang lên đài”. (châm biếm việc leo lên vũ đài chính trị)

Lữ Nhất là một người đàn ông trung niên tướng mạo bình thường, vóc dáng không cao, nói chuyện từ tốn. Điểm đặc biệt duy nhất chính là ánh mắt của y, ánh mắt y thoáng có chút xám tro, lúc nhìn người thường hơi nheo lại, trông giống như một con thú có phần tàn nhẫn.

Nhưng loại tàn nhẫn này, ở trong mắt Tôn Quyền thì không thấy được. Y ở trước mặt Tôn Quyền, luôn luôn cúi mi buông mắt (biết vâng lời), dùng khẩu khí chân thành cởi mở nói những lời nghe như trung thành khẩn thiết. Y còn biết khóc, y rành chuyện căn cứ vào bất kỳ trường hợp nào bất kỳ hoàn cảnh nào mà cần chảy xuống hàng lệ đυ.c ngầu, đồng thời nói với Tôn Quyền y rơi lệ là bởi vì y cảm thấy hoàng đế làm lụng quá vất vả.

Không biết Tôn Quyền muốn dùng Lữ Nhất làm công cụ để đạt được mục đích nào đó, hay là bởi vì những năm gần đây bên người hắn thủy chung không có người như vậy, bởi vậy mới khiến hắn mới mẻ mà hưởng thụ. Nói chung, sau khi nói chuyện vài bận với Lữ Nhất, hắn liền trực tiếp đem Lữ Nhất thăng chức làm Trung thư, cho y quyền lực dồi dào.

Ký Diễm cùng Lữ Nhất, là hai “Ác quan” được ghi lại trong sử sách Đông Ngô. Có thể xem như hình ảnh giữa hai mặt gương, nhìn qua tuy giống nhau, nhưng kỳ thực mỗi một điểm đều là tương phản. Tuy rằng đều cùng là người ‘tính toán đến từng chi li’, cùng chấp pháp hà khắc, nhưng bản tâm của hai người, lại hoàn toàn khác nhau. Ký Diễm là thật tâm tin tưởng thế giới này phải trắng đen rõ ràng, trừ bỏ đi tất cả những người vi phạm pháp lệnh dù lớn dù nhỏ, để có thể nghênh đón một Đông Ngô thanh lãng như cõi càn khôn. Suy nghĩ này tất nhiên là ngây thơ, nhưng suy cho cùng cũng không hề thấp hèn. Còn về Lữ Nhất, trong suy nghĩ của tôi, Lữ Nhất có thể tồn tại loại thị phi gì đó trong lòng. Pháp luật đối với y, bất quá chỉ là một thứ công cụ nắm trong tay mà thôi.

Lữ Nhất là một diễn viên trời sinh.

Y ở trước mặt Tôn Quyền là trung thành khẩn thiết như thế, là chân thành cởi mở như thế, ra khỏi tường cung, đến trước mặt bách quan, y lập tức liền thay một bộ mặt tiểu nhân đắc chí. Y nắm chặt quyền lực trong tay, hễ những quan viên hơi ngỗ nghịch với y một chút liền bị y cách chức vấn tội, lại đem những người thừ nghênh mình đề bạt trọng dụng. Trong lúc nhất thời, trên dưới triều đình, phảng phất mỗi một sự kiện dường như đều quay chung quanh Lữ Nhất.

Nước quá trong ắt không có cá. Chúng triều thần Giang Đông, mỗi một người đều không phải thanh chính cao nhã gì. Những năm gần đây ở Giang Đông, từng gặp qua kẻ tham lam, cũng từng gặp qua những kẻ bất thiện, có điều vô sỉ đến công khai như Lữ Nhất, là chưa từng gặp qua. Có lẽ Tôn Quyền thật sự đã già đi, không thể phân biệt thị phi; hoặc giả hắn đều biết hết, chỉ là xem Lữ Nhất là một Ký Diễm thứ hai mà thôi. Hay hoặc là cả hai. Bao nhiêu năm nay, cùng phát triển theo hắn, chính là thế lực rắc rối khó gỡ của những thế gia đại tộc ở Giang Đông đều, vẫn luôn là một khối tâm bệnh mà hắn không thể trừ bỏ hết. Không phải là hắn không tin bọn họ, không phải là hắn không tin bản thân, nhưng tranh đấu giữa quân vương cùng triều thần, từ cổ chí kim đều có, không thể tránh.

Lần đầu tiên gặp Lữ Nhất, tôi mở to hai mắt không thể tin được. Lúc bấy giờ hắn đang xoa bóp vai cho Tôn Quyền, mặt mày trơn bóng như một gã hoạn quan đã tịnh thân từ lâu. Tôn Quyền xem từng quyển tấu chương, hắn cũng không lỡ dịp thỉnh thoảng thầm thì bên tai Tôn Quyền. Nhìn thấy tình cảnh kia, tôi không khỏi chán ghét nhíu mày.

Hắn lại cười xum xoe nói: “Tại hạ bái kiến Ảnh phu nhân.”

“Lữ Trung thư thật vất vả. Loại chuyện này, giao cho cung nhân làm là được rồi.” Tôi nhàn nhạt đáp.

“Tại hạ quả thật không giỏi việc này,” hắn vẫn thuận mi buông mắt nói, “Nhưng thật sự không biết làm cách nào để biểu đạt một phần tâm của bản thân đối với bệ hạ…”

Dừng một chút, hắn thở dài, trên mặt trồi lên biểu tình sầu lo, trong mắt lại ẩn ẩn lệ quang. Hắn nhìn tôi nói: “Ảnh phu nhân, bệ hạ thật sự rất vất vả, chúng thần đều phải tận lực chia sẻ chút ít với ngài mới phải.”

Lời hắn nói, rõ ràng đã làm Tôn Quyền hưởng thụ. Nếu quả thực muốn nói, ngay từ đầu hắn vẫn thờ ơ lạnh nhạt với những hành động và lời nói của Lữ Nhất, thì theo thời gian trôi qua, hắn cũng sẽ dần dần quen với loại nịnh nọt này.

Hắn có anh minh dường nào cơ trí dường nào, cũng chỉ là một người thường mà thôi. Cái hắn cần không chỉ là người vì hắn làm việc, vì hắn xuất chinh, mà hắn cũng cần có người quan tâm hắn, nịnh hót hắn. Những lời này, thật cũng tốt, mà giả cũng được, hắn vẫn cần.

Vài năm qua, hắn thân cận với văn võ bá quan, tuy rằng đều là những người rất tốt, nhưng lại có mấy người cũng nói với hắn những lời không kiêng nể.

Cho nên tôi không thể không thừa nhận Lữ Nhất quả thật là một người lợi hại. Ngay cả mặt mũi đều không cần, thì còn có thể cố kị cái gì.

Nhưng tôi vẫn không thể tin được. Trong sách sử ghi lại sự kiện Lục Tốn cùng Phan Tuấn ở Vũ Xương, vì chuyện Lữ Nhất mà ngồi nhìn nhau khóc, tôi vẫn nhớ rõ, cũng vẫn canh cánh trong lòng. Hiện thời nhìn thấy Lữ Nhất, càng cảm thấy không thể chịu đựng được. Bọn họ đều là những trọng thần của quốc gia thân kinh bách chiến, Lục Tốn trầm tĩnh, Phan Tuấn hào phóng, nhưng trầm tĩnh cũng tốt mà hào phóng cũng tốt, bọn họ đều là anh hùng của thời đại này. Vì một hạng tiểu nhân này mà bị tức đến chảy nước mắt, thì sao có thể.

Cũng chẳng phải là không có ai đứng ra phản đối Lữ Nhất. Thậm chí ngay từ đầu, tấu thư dâng lên buộc tội Lữ Nhất cũng như tuyết rơi đầy trời. Cùng với cách làm buộc tội Ký Diễm lần trước cũng giống nhau, nói y ‘dùng người thiên vị’, nói y lạm dụng hình pháp… Nói hắn vân vân đều có.

Nhưng không thể nghi ngờ là so với Ký Diễm, Lữ Nhất khôn khéo lõi đời hơn nhiều. Tôn Quyền lấy những tờ tấu chương kia hỏi y, y không phản bác, cũng không nói người dâng sớ là sai trái. Y chỉ chảy nước mắt mà tâu với Tôn Quyền:

“Thần thừa nhận, có đôi khi thần dụng hình có hơi nặng. Nhưng toàn bộ cũng xuất phát từ một mảnh trung tâm của thần đối với bệ hạ… những điểm bất chính trong triều đình rất thịnh, nếu không quản lý chặt chẽ, sẽ không thể quét sạch. Những đại nhân kia chỉ trích thần, cũng là có đạo lí, thỉnh bệ hạ trăm ngàn lần không nên trách tội họ. Thần sẽ tạ tội với họ…”

Đến cuối cùng, trái lại Tôn Quyền quay đầu an ủi hắn, sau đó đem những tấu chương buộc tội kia bác bỏ, cuối cùng không giải quyết được gì.

Có một ngày tôi thật sự nhìn không nổi nữa, trước mặt Lữ Nhất nói với Tôn Quyền:

“Bệ hạ, một hai người nói một người không đúng, có lẽ do bọn họ thành kiến. Nhưng nếu một trăm người đều nói một người không đúng, chẳng lẽ không phải người kia có vấn đề sao?”

“Ảnh phu nhân lời ấy là sai rồi,” Lữ Nhất vội vàng biện giải nói, “Chính là vì bệ hạ ngày thường quá ân cần đối tốt với thần dân, mới làm cho bọn họ cảm thấy làm cái gì đều là đương nhiên. Hiện tại hạ quan muốn giúp bệ hạ hơi thanh lọc những cơn gió kia, bọn họ liền hiểu lầm hạ quan. Ảnh phu nhân chỉ nhìn đến triều dã cao thấp này một trăm quan viên, Ảnh phu nhân có hay không nghĩ tới, ngoài họ ra, còn có ngàn vạn bình dân bách tính, bọn họ bị xâm phạm lợi ích, ai đến nói cho bệ hạ đây?”

Tôi im bặt không nói gì. Một mặt bởi vì lời hắn nói đều không phải hoàn toàn là tin đồn vô căn cứ, những quan viên bị thanh tra kia, luôn luôn đều có vấn đề một phần nhiều hoặc ít, vấn đề tuy nhỏ, nhưng đều không phải là bịa đặt vô căn cứ; một mặt khác là bởi vì, hiện tại Tôn Quyền, tình nguyện tin tưởng Lữ Nhất.

Sau khi Tôn Quyền lên làm hoàng đế, vùng đất cai trị của hắn không phải là lớn, mà là nhỏ. Hắn sợ hãi bị lừa gạt, sợ hãi bị quần thần liên hợp lại đoạt mất quyền lực, hắn cần đạt được một sự cân bằng giữa hắn và những đại thế lực đã đan vào nhau thành lưới kia. Cho nên hắn tình nguyện tin tưởng Lữ Nhất.

Còn có một nguyên nhân là, Tôn Quyền xác thực đã già đi. Hắn đã phạm vào một chuyện hồ đồ mà bất kỳ người già nào cũng đều sẽ phạm vào.