Chương 4: Lợi và nghĩa

Tháng năm, Tôn Quyền từ Kiến Nghiệp khởi binh bắc thượng, tấn công tân thành Hợp Phì. Lúc ra trận, những lời tâm sự chân thành cởi mở cùng Gia Cát Lượng vẫn còn vang vọng bên tai. Tại thời điểm đó, hắn thật sự tin tưởng bản thân có thể thành công một lần.

Nhưng rời khỏi Kiến Nghiệp, một đường bắc thượng, trong lòng hắn lại bắt đầu dấy lên nỗi bất an mơ hồ.

Vùng đất từ Giang Bắc tới Hợp Phì, là nơi xảy ra chiến sự liên miên. Đáng lý ra, thành trấn nơi đó hẳn phải người ở thưa thớt, thành quách đổ nát mới phải. Nhưng một đường bắc tiến, chứng kiến thành trấn, tuy rằng nhà ở có nhiều thiệt hại, nhưng dân cư vẫn dày đặc như cũ.

Dân chúng đã định cư lâu đời tại Giang Bắc, trừ phi thật sự quá không chịu được, bằng không lại có ai nguyện ý bỏ mặc phần mộ tổ tiên, vượt sông mà tha hương nơi đất khách. Mà dải đất Biên Hoang này chỉ chếch một chút gần biên thành. Ở phía sau Hợp Phì, còn có Thọ Xuân, có Từ Châu, có Hứa Xương nơi lắng đọng hơn ba trăm phồn vinh của triều đại Hán, Lạc Dương. Nơi đó có dân cư vô tận, chiến mã cuồn cuộn không dứt. Mà Giang Đông dưới sự thống trị của hắn, không thể không phồn vinh so với trước kia, không thể không dồi dào so với trước, nhưng so với vùng Trung nguyên mà nói, vẫn kém rất xa.

Hắn lại nhớ tới chuyện xưa vài phen chinh phạt Hợp Phì. Kiến An năm thứ mười ba, hắn chinh phạt Hợp Phì, thất bại quay về. Kiến An năm thứ mười chín, lại chinh phạt Hợp Phì, đại bại trước Trương Liêu tại bến sống Tiêu Dao, nếu không có Cam Ninh và Lăng Thống liều chết cứu giúp, chỉ sợ đã trở thành hồn ma dưới thanh đao của Trương Liêu.

Năm vừa rồi, lại chinh phạt Hợp Phì, lại vẫn thất bại mà quay về.

Chinh phạt Hợp Phì không có kết quả, phảng phất đã trở thành số mệnh của hắn.

Lúc này đây, hắn vẫn kiên trì dẫn binh đến tân thành của Hợp Phì. Chiến tranh ngay từ đầu đã là một quy tắc lâm vào dĩ vãng. Hắn vây thành khổ chiến, mà thành trì phòng thủ kiên cố. Hiện tại, binh mã trong thành ít hơn so với trước đây. Nếu đợi một thời gian, chung quy thì cũng có thể đánh hạ. Nhưng mấu chốt là, liệu quân Ngụy đã có viện quân đến hay chưa, nếu đã có, thì sẽ có bao nhiêu người, sẽ do ai thống lĩnh, và khi nào thì đến.

Hắn biết cho dù có viện quân, trải qua một phen huyết chiến, chung quy có thể chiếm được Hợp Phì. Nhưng sau khi chiếm được, nguyên khí sẽ tổn thương nặng. Nếu không để lại binh lính thủ thành, thì có chiếm được cũng bằng không. Nhưng nếu lưu lại đủ binh thủ, thì làm sao chắc chắn tiếp tục bắc thượng được.

Nơi gửi gắm hy vọng duy nhất là tây tuyến của Gia Cát Lượng. Nhưng nếu đông tuyến không thể thuận lợi tiến quân, cho dù Gia Cát Lượng chiếm được Trường An, thì sẽ cho Đông Ngô bao nhiêu ích lợi.

Sẽ không có lợi cho Đông Ngô hơn tình huống hiện tại.

Thời loạn thế này, tình nghĩa chính là một nhân tố dẫn xuất của lợi ích cộng đồng. Gia Cát Lượng biết rõ, Tôn Quyền cũng biết rõ. Ngô Thục sở dĩ đồng tiến cộng lui, chính là bởi vì song phương thế lực ngang nhau, chính là bởi vì song phương đều có một kẻ địch mạnh hơn bọn họ – Ngụy. Nếu sự mạnh yếu giữa tam phương xảy ra biến hóa, như vậy đồng minh cũng xem như không còn tồn tại nữa.

Tôn Quyền chưa từng nghĩ đến chuyện muốn phòng bị Gia Cát Lượng, nhưng hắn không phòng bị được cái tâm ma tên là “Lợi” từ đáy lòng mình.

Tin tức Ngụy đế thân chinh càng làm kiên định thêm suy nghĩ của hắn. Tại thời điểm viện quân của Ngụy còn cách Hợp Phì mười ngày lộ trình, hắn xúc động quyết định, thu binh quay về Ngô. Hơn nữa ra lệnh cho Lục Tốn đang chuẩn bị bắc tiến cùng Tôn Thiều cũng thu binh trở về thành.

Bởi vì người truyền tin bị quân Ngụy bắt được, Lục Tốn ở trong quân doanh diễn một màn “Bắn diễn như cũ”, qua một tháng, chờ quân Ngụy thả lỏng cảnh giác mới đưa quân đội từ từ lui về. Mà ở trước đó, Tôn Quyền đã phân một phần binh, tự dẫn đến tiếp viện Giang Hạ.

Lương tâm hắn có chút bất an, luôn cảm thấy đã phụ Gia Cát Lượng. Nhưng so với lợi ích quốc gia mà nói, tình nghĩa cá nhân không còn quan trọng nữa.

Nghe Tôn Quyền nói xong, tôi bèn kể lại cho hắn toàn bộ âm mưu của Gia Cát Lượng.

Hắn kinh ngạc nghe xong, nhưng không hiện ra nhiều uất giận lắm, chỉ thở dài một tiếng, nói: “Không thể tưởng được lại như thế này.”

Lục Tốn nói: “Nghe nói vào ngày bệ hạ dẫn quân đến, có quân sĩ ở bờ sông phát hiện một đội binh lính đã đến đây trước dò thám. Đang muốn tróc nã, nhưng lại làm cho bọn chúng bỏ đi. Lúc ấy thần tưởng là quân Ngụy. Giờ ngẫm lại, có lẽ là quân Thục. Bởi vì lúc đó nhìn thấy đại quân của chúng ta, mới bỏ đi ý niệm thừa dịp chúng ta suy yếu mà chen vào.”

Tôn Quyền nói: “Nói vậy, hết thảy đều là ý trời.”

Hắn ngẫm nghĩ, đoạn phá lên cười, nói: “Một năm kia, Khổng Minh nắm tay trẫm, nói rằng Hán không phụ Ngô, Ngô không phụ Hán. Bây giờ nghĩ lại, chúng ta đều phụ đối phương, đúng là vẫn còn huề nhau.”

Hắn lại quay sang nói với Lục Tốn: “Bá Ngôn, ngươi đi thông tri việc này cho toàn quân, cao thấp vùng ven sông, phải tăng cường đề phòng.”

Lục Tốn lĩnh mệnh toan đi ra ngoài, đi tới cửa, Tôn Quyền lại gọi chàng lại.

Hắn ngẫm nghĩ, thở dài, nói: “Thôi bỏ đi, việc này đừng cho người khác biết. Chỉ căn dặn cao thấp vùng ven sông phải tăng cường đề phòng là được.”

*

Tháng chín, tin Gia Cát Lượng qua đời truyền đến Giang Đông. Rốt cục tôi vẫn không được tận mắt nhìn thấy quá trình, cũng không biết lúc này quang cảnh ở Thành Đô đã như thế nào.

Quân Thục cuối cùng vẫn không chiếm được Trường An. Gia Cát Lượng vừa chết, phía đông lại không có quân Ngô kiềm chân, bọn họ đành chỉ có thể lui quân về Thành Đô. Trên đường lui quân, còn xảy ra chuyện Ngụy Duyên mưu phản, tuy rằng cuối cùng cũng đã được bình ổn, nhưng vẫn mang đến tổn thất không thể bù đắp lại.

Đám quan viên Thục Hán không rõ nội tình, thành thử trong lòng sinh oán hận đối với Giang Đông. Bọn họ cho rằng do Giang Đông thất tín làm cho Bắc phạt không có kết quả, bọn họ cũng càng cho rằng do Giang Đông rút quân làm tăng nhanh cái chết của Thừa tướng bọn họ. Tôn Quyền biết những lời đồn này, nhưng hắn không hề nói gì, chỉ là phân phó toàn Đông Ngô để tang cho Gia Cát Lượng, đồng thời lệnh cho Toàn Tông lĩnh năm vạn binh mã đóng quan tại Ba Khâu.

Trước khi chia tay, Toàn Tông tới hỏi hắn, chuyến này đi Ba Khâu, rốt cuộc là công hay thủ. Sau một hồi trầm ngâm thật lâu, hắn phun ra hai chữ: “Đợi lệnh.”

Đồng thời tại Vĩnh An, binh mã Thục Hán đang tụ tập tại đây, Tông Dự cũng lấy danh nghĩa báo tang cho quan viên nhà Thục mà rời đi đến Kiến Nghiệp.

Hắn cũng không trực tiếp nhắc tới việc ở Ba Khâu, chỉ thành khẩn biểu đạt lòng cảm kích trước chuyện Đông Ngô khóc tang cho Gia Cát Lượng. Trong lúc hàn huyên, hắn hai lần nhắc tới quân Ngụy hiện đóng tại Thọ Xuân, người chỉ cần hơi để ý một chút, cũng có thể nghe ra hàm ý nhắc nhở trong lời hắn nói.

Cuối cùng Tôn Quyền hỏi hắn: “Ngô, Hán đã là một nhà, các ngươi vì sao lại muốn gia tăng quân thủ Bạch Đế?”

Tông Dự ngẫm nghĩ, sau đó thản nhiên đáp: “Lý do cũng giống như quý bang.”

Tôn Quyền trầm ngâm không nói. Một khắc kia, tôi có thể cảm thấy trong lòng hắn do dự; lúc ấy tôi biết, thiện ác đều ở trong ý niệm của hắn. Nhưng cuối cùng hắn lại cười rộ lên, lấy ra một mũi tên bẻ gẫy, nói với Tông Dự:

“Trẫm chỉ là sợ quân Ngụy thừa dịp lễ tang mà tấn công Thục, nên phái binh giúp Thục phòng bị quân Ngụy, đồng thời không có ý gì khác. Ngô và Hán có liên minh, nếu trẫm phụ minh ước, thì sẽ giống như cây tên này.”

Tông Dự hành lễ tạ ơn. Tôn Quyền nghĩ nghĩ lại hỏi hắn:

“Chuyện của Khổng Minh khi còn sống, ngươi có biết được một hai không?”

“Chẳng hay lời bệ hạ có ý gì.” Tông Dự bình thản đáp.

Tôn Quyền cười cười, nói: “Thôi vậy.”

Cuối cùng Ngô, Thục mỗi bên để lại hai vạn binh mã ở biên giới. Ngụy cũng để lại mấy vạn binh mã ở Thọ Xuân.

Tôn Quyền không tiếp tục nhắc tới âm mưu sau cùng của Gia Cát Lượng đối với ai. Theo thời gian trôi qua, hắn dần dần chôn vùi nó dưới lớp cỏ hoang. Lưu lại, cũng chỉ có thanh danh thiên cổ không đổi của Gia Cát Lượng.

Đó chính là nghĩa của người đàn ông. Tại cái nơi điều kiện tiên quyết là quyền lợi đạt được sẽ không thay đổi này, hắn lại bộc trực như vậy, trọng nghĩa như vậy.

Mà tôi tình nguyện tin tưởng, lại thật sự tin tưởng, đêm hôm đó ở trên con thuyền hoa trên sông ngoại thành Vũ Xương, bọn họ nắm tay đối phương, khẳng khái minh ước, là thật sự chân thành, là thật sự chưa từng nghĩ tới sau này.

Gia Cát Lượng đã chết, nhưng câu chuyện Tam Quốc vẫn còn tiếp tục.

Đó là một câu chuyện cũ rất dài. Nếu quả thật có người kể chuyện xưa, tôi tin tưởng đến mai sau, trong dòng thời gian dài đằng đẵng, hắn cũng sẽ quên nói chuyện xưa chỉ là vì chờ đợi kết cục cuối cùng, hắn sẽ cảm thấy câu chuyện buộc phải liên tục kể kia, là một câu chuyện vĩnh hằng.

Nhưng hễ là chuyện xưa thì sẽ luôn có kết cục. Có một ngày nó sẽ ngừng lại, nhưng trước đó, chúng ta đều cảm thấy ngày đó rất xa, rất xa.