Quyển 4 - Chương 130: Dời đô

Bắc Phạt ở

trong vòng nửa

tháng sau khi Hoàn Nhan Lượng chết,

phát động

toàn diện,

lần này do Tiêu Sơn cùng Lý Hiển Trung dẫn

binh,

lấy Lưỡng Hoài là mặt

trận chính.

Ba vạn nhân mã của Trương Chí Hùng Tân Khí Tật cũng đến sát nhập,

do Tiêu Sơn quản lý,

đội quân của Vương Hữu Trực lại

tiến đến Tương Dương.

Lang Yên

(*đốt phân sói làm khói

tín

hiệu)lại một lần nữa cháy lên

tại vùng đất này.

Bắc Phạt giai đoạn đầu,

sĩ khí các nơi

tăng vọt,

trên khắp cả nước đều là

tiếng

hô giành lại quêhương,

mà chiến đấu cũng

hết sức

thuận lợi,

chiến

trận Giang Hoài còn chưa

tới mười ngày,

đã chiếm được một vài

trọng

trấn

(*trấn quan

trọng,

về mặt quân sự)

như Linh Bích,

Hồng Huyền,Túc Châu ven

bờ sông Hoài,

chiến đấu

tiến

hành

thuận lợi như vậy,

lại khiến cho Tiêu Sơn

bất ngờ,

lại càng không nói đến Triệu Viện cùng những người khác.

Triệu Viện lập

tức chỉ

thị Tiêu Sơn cùng các

tướng lĩnh khác nhanh chóng mở rộng

thành quả,nhưng

thời điểm Tiêu Sơn đối mặt với

tình

huống như vậy,

rồi lại cảm

thấy càng

thêm lo lắng,hắn lén lút nói với Đốc quân

tiền

tuyến Ngu Doãn Văn: “Hiện

tại quân Tống

tuy nhiều,

nhưng phần nhiều là kiêu

binh

hãn

tướng

(*binh kiêu ngạo,

tướng. hung

hãn),

thắng liền

trắng

trợn cầu phong

thưởng,

lại còn

hy vọng có

thể

tiến vào

thành cướp

bóc

bốn phía,

tuy rằng đã cố

hết sứchạn chế,

nhưng loại



tưởng này rất không được,

sớm

hay muộn cũng xảy ra chuyện.”

Ngu Doãn Văn

cũng



chút

lo

lắng: “Hoàn Nhan Ung đã điều động khẩn

cấp

mười vạn đại quân,lệnh Đại

tướng Hột Thạch Liệt Chí Ninh

chỉ

huy

mười vạn đại quân

tiến đến Túc Châu,

sức

chiến đấu

của

mười vạn đại quân

lần

này

cùng với

thiêm quân

của Hoàn Nhan Lượng



hoàn

toàn bất đồng,

lực

lượng

chiến đấu không

thể

nào so sánh

nổi.

Bởi vì

liên

tục

chiến

tranh

loạn

lạc,

triều đình đánh

thuế

rất

nặng,

dân

chúng đã



lời oán

thán.

Thật

lo

lắng sẽ xảy

ra

chuyện!”

Tiêu Sơn lo lắng cái gì cái đó đến,

thời điểm

hắn phái đội quân của Thiệu Hoành Uyên đi nghênh chiến Đại

tướng Kim Quốc Hột Thạch Liệt Chí Ninh,

Thiệu Hoành Uyên có chút mất

hứng mà ngầm kích động

bộ

binh: “Trước kia còn là

hoàng mao

tiểu

tử* dưới

trướng

ta,

hiện

tại đã

thành đại soái

thống lĩnh mười vạn

binh mã,

đều là người quen cũ,

vậy mà

ban

thưởng chẳng đượcbao nhiêu!”

(*ý chỉ

tuổi nhỏ k

hiểu lý lẽ (ý

tứ

trêu chọc

hoặc khinh

thường)

Đội quân dưới

trướng Thiệu Hoành Uyên dưới

loại bất

mãn

này

của ông



cảm xúc giảm sút,

bắt đầu phát sinh

hỗn

loạn,



một bộ phận binh sĩ

tiến

hành

châm

ngòi,

thậm

chí

cự

tuyệt

tiếp

nhận banthưởng

của

triều đình,

lý do

là phần

thưởng quá ít.

Kim Quốc

thừa

cơ vây

công,

đội quân

của Thiệu Hoành Uyên gần

như

tan



hoàn

toàn,

Túc Châu vừa

chiếm được không quá ba

ngày,

lại bị

cướp

mất.

Thời

điểm

Tiêu

Sơn nghe được tin này, trong lòng cũng không

có quá nhiều cảm giác ngoài ý

muốn,

nhưng lại

khiến cho

hắn

hết sức vui mừng chính là, dưới tình huống toàn quân tan rã

thế này, Lý Hổ

Thần

do mình đề

bạt

lên,

dốc sức chiến đấu ngăn chặn, vớt vát lại

được

không ít

tiền

bạc lương

thực,

lại

còn nhanh

chóng

triệu tập

hội

binh,

tổ chức chống

đỡ, khiến

cho kết quả chiến sự

không đến

nỗi

mất trắng.

Tại Trung

Nguyên, Xuyên Thiểm

nơi quân Tống chiến

đấu,

cũng

gặp phải cùng loại vấn đề

ở trình độ bất

đồng, cũng không có

cái

loại

được

người

người ủng

hộ như phe lạc

quan

của

Trương Tuấn tưởng tượng,

trong

vòng

một

tháng

có thể xuất hiện tình huống thu phục được cố

hương.

Hai bên

rơi vào giằng

co,

căng

thẳng không

thôi,

vừa

lúc đó,

Hoàn Nhan Ung

lại

lần

nữa đưa

tới

thưnghị

hòa,

nguyện ý

thay đổi

một số

hiệp ước bất bình đẳng

trong Thiệu Hưng Nghị Hòa

lúc

trước,đem quân

thần quốc gia đổi

thành quan

hệ

thúc

chất,

của

cải

cống

nạp

hàng

năm

cũng được giảm bớt,

nhưng vẫn yêu

cầu quân Tống

trước

mắt

trả

lại địa bàn Kim Quốc đã

chiếm được

lúc đầu.

Lúc

này điều Tiêu Sơn

lo

lắng

nhất không phải

tình

hình ở

tiền

tuyến,





thái độ

của Triệu Viện,hắn

rất

lo

lắng Triệu Viện ở

loại

tình

huống

này

mà đánh

mất

tự

tin,

cho

nên

cố ý ở

lại Kiến Khang

mộtchuyến,

hy vọng



thể dùng

hết

tất

cả phương pháp

cổ vũ Triệu Viện,

lại khiến y không

nên

nản

chí.

Nhưng

vượt

ra khỏi dự liệu của

Tiêu

Sơn,

Triệu Viện cũng không giống như trong lịch sử trở

nên

tinh

thần

sa sút bối

rối

hoang

mang, ngược lại càng thêm kiên định với

niềm

tin

trong

lòng.

Triệu Viện đứng

trên

thành lâu Kiến Khang,

nắm

tay Tiêu Sơn,

nói: “Ta đã làm xong chuẩn

bị

bạitrận.

Thất

bại cũng không phải là chuyện gì xấu,

ngược lại còn khiến

ta càng

thêm nhìn rõ

tìnhthế,

đã

biết nhược điểm cùng những nơi cần

thay đổi của quân

ta,

lại khiến

ta

hình

thành được mục

tiêu kế

tiếp!”

Lúc

này,

Tiêu Sơn

thầm

thở phào

nhẹ

nhõm,

hắn

hơi quay đầu,

nhìn

thấy biểu

cảm

trên

mặt Triệu Viện,

căn bản không



nửa điểm uể oải

chán

chường

của bại

trận,

ngược

lại,

ánh

mắt y

càng

thêm kiên định,

càng

thêm

tự

tin.

Thời

điểm

đối mặt với thư

thỉnh hòa

của

Kim Quốc,

Triệu

Viện

nghe

theo

đề nghị của Tiêu Sơn cùng Ngu

Doãn

Văn:

Nếu

như quân Kim có

năng

lực

chiếm

được

triều đình của

ta,

thì căn bản sẽ

không

cầu

hòa,

mà là

trực

tiếp

xuất

binh. Bệ

hạ căn bản

không cần

phải

đồng

ý nghị hòa, chiến hay hòa không phải do

Quân

chủ

hai bên quyết định dựa vào một

bản

công

văn,

mà là

quyết định dựa

vào

thực

lực của hai bên.

Ngày đó,

Triệu Viện

cùng Tiêu Sơn

ngẩn

người

trên

thành

lâu

trọn vẹn

một

ngày,

thẳng đến khi

trờichiều

ngã về Tây,

y bỗng

nhiên quay đầu

lại,

nhìn Tiêu Sơn,

dùng giọng điệu quả quyết

nói: “Chỉ

cầncó

ngươi ở bên

cạnh,

ta không sợ bất

luận

thất bại

nào

cả!

Càng không

có bất

luận dao động!”

Thế cục quả nhiên như dự

đoán

của Tiêu Sơn cùng Ngu Doãn Văn, Hoàn Nhan Ung

cũng

không vì

Triệu

Viện

cự tuyệt

đàm phán hòa bình mà

trắng trợn tiến Nam, hiện tại

Kim

Quốc

hỗn loạn,

gã cũng không thể tiến hành xuôi Nam lần

nữa,

chỉ

có thể đóng trọng binh tại hai

quân

giằng co.

Mà Tiêu Sơn cũng thừa dịp này

gấp

rút chỉnh

đốn quân đội, bởi vì

đội

ngũ của Thiệu Hoành

Uyên

tan rã, hắn đã

có lý

do để thay máu

(*tổ

chức

lại,

thiế

t lập

lại)

đội

ngũ lần thứ hai, đem

binh

sĩ tan rã

sắp

xếp vào đội ngũ

của

Tân Khí Tật, lại thỉnh thoảng

khơi

mào xung đột quy mô

nhỏ,

dùng

để diễn tập chiến đấu thực tế,

tăng

cường tố

chất

cùng

năng

lực tác chiến cho đội quân.

Thời

điểm

Tiêu

Sơn tích cực chuẩn bị, Triệu Viện cũng không

dừng

tay,

y cũng không bị

ảnh

hưởng

bởi

phe chủ hòa của

đám

người

Sử Hạo, Triệu

Cấu trong

triều, ngược lại còn

bắt

đầu cải tiến vũ

khí

quy mô lớn, chỉnh đốn kinh tế,

liêm

chính thanh minh, chăm lo việc nước. Y

thậm

chí cũng không

trở về Lâm

An,

mà vẫn một

mực

ở lại

Kiến

Khang, thừa dịp chiến tranh mang đến tổn hại

cùng

hỗn

loạn,

cật

lực đề bạt

một

số quan viên có

biểu

hiện

tốt

vào lúc này, lại giáng chức rất nhiều quan viên chỉ thích nói suông mà

không có

chút

thành

tích.

Loại

cải

cách

này,

trong

thời kỳ

hòa bình dĩ

nhiên sẽ đưa

tới

rất

nhiều vấn đề

cùng suy xét

lợi ích vềmọi

mặt,

thậm

chí

ngay

cả khi đã

nắm được

nhược điểm

của

người

mà bản

thân

muốn xử



cũng phảitrắc

trở đánh

hay không,

gắng sức bày

mưu giở

thủ đoạn

mới



thể

làm được,

nhưng

tại

thời kỳ đặcthù

như

thế

này,

tức

thì đơn giản

hơn

rất

nhiều.

Chẳng những

thế,

Tiêu Sơn còn có

thể định kỳ chọn phái đi một vài

tướng lĩnh,

đưa về Kiến Khang

tiến

hành giáo dục,

từ

tố chất lãnh đạo cho đến



tưởng đều cố gắng cải

thiện

toàn diện.

Tại thời điểm Triệu

Viện

tiến

hành

một loạt cải cách và

chỉnh đốn, Hoàn Nhan Ung

của

Kim Quốc cũng không

nhàn

rỗi,

gã vốn chuẩn bị

sau

khi Tống Kim nghị hòa liền hạ

lệnh

chiêu

an (*Gọi

về và

sắp

đặt đời sống cho yên.), giảm bớt thuế má, có

thể khiến

cho dân chúng lưu lạc khắp Trung Nguyên

trở về đồng ruộng làm ăn,

nhưng bởi

vì quân Tống tại biên cảnh không ngừng

khiêu

khích, gã

không dám

rút

đại quân về, muốn duy trì

binh

lực,

tức

thì không

thể không

gia tăng thuế má.

Thời

điểm

này,

chênh

lệch

kinh

tế giữa hai nước Tống Kim bắt

đầu

hiện

ra.

Hai

nơi Giang Nam Tứ Xuyên,

thời kỳ Bắc Tống đã

trở

thành

trung

tâm kinh

tế

của

cả

nước,

Trung Nguyên

trải qua

chiến

loạn,

hiện

thuộc sở

hữu

của Kim Quốc,

vốn



nơi

nghèo

túng

lại phải

tăng

thuthuế

má,

ngược

lại khiến

cho

nhiều

người không

ngừng vào

rừng

làm

cướp.

Tại phương

diện

dùng

người, Hoàn Nhan Ung gặp

phải

không ít

khó khăn,

số lượng người

Nữ Chân tương đối ít, phần lớn

đại

thần

giữ chức trong

triều

đều

là người Hán, nhưng

bởi vì Triệu Viện một mực

biểu

hiện

không nghị hòa, chính là

tư thái muốn Bắc Phạt, những

người

Hán

này tâm tư

dao

động,

không biết lúc

nào

quân

Tống

sẽ đánh tới, bản thân có

nên làm Hán gian hay

không, có

nên

góp sức hay không, làm tốt rồi

tương lai

có thể có

một

ngày

bị tính nợ

cũ hay không,

cũng

là một vấn

đề rất lớn.

Bởi vì Tiêu Sơn

tập

trung về cung cấp chế

tạo vũ khí,

quân giám sát

binh khí Tống Triều gần như là mỗi ngày đều có

thành quả mới,

mà vũ khí của Kim Quốc,

ngoại

trừ lấy được

hỏa khí mới*,phần lớn vẫn dừng lại ở

trình độ

trường mâu cung

tên cùng giáp sắt.

(*Nguyên cái câuì thế này除了弄到的新火气的一鳞片抓之外 T^T.)

Theo

thời

gian

chậm

rãi trôi qua, quốc lực

(*

thực

lực q

uốc g

ia)

của hai bên

dưới

loại

tình

huống này, cũng bắt

đầu

chậm

rãi thay đổi. Trong

mấy năm liên tục khẩn trương giằng

co, nhanh

chóng

phát

triển một

nhóm

tướng lĩnh cùng binh sĩ

được

huấn

luyện

thành thục

Năm

năm sau,

Tiêu Sơn ba

mươi

mốt

tuổi,

Triệu Viện

cho

hắn

tạm

thời dời vào

nội

cung Kiến Khang,nghị sự

tại

tẩm

các.

Chỉ đơn

thuần là nghị sự,

Triệu Viện quyết định đem

binh lực cả nước,

giao cho Tiêu Sơn quản quản lý điều động,

lần nữa phát động Bắc Phạt!

Bắc Phạt lần này không còn là

hành động quân sự mạo

hiểm đơn

thuần,

mà là

hai nước so đấuthực lực,

tại

thời điểm mới

bắt đầu,

Tiêu Sơn đánh đến vô cùng khó khăn,

thậm chí còn có

tìnhhuống giành lại được một

thành

trì lại

bị quân Kim chiếm mất,

cứ lấy đi đoạt lại năm sáu lần,trong chiến

tranh,

cũng không phải

tất cả chiến dịch đều là

thắng lợi,

cũng có chiến dịch

thất

bại.

Nhưng

hiện

tại,

đại bộ phận binh sĩ

cùng đại

thần,

đều đối với

thất bại

lặp đi

lặp

lại

này,

đã

có sự

nhậnthức sáng suốt,

thất bại sẽ

nhanh

chóng điều

chỉnh bố

trí

hành động,

lần

nữa xông

lên.

Bắc Phạt

tháng

thứ sáu,

Tiêu Sơn

thống lĩnh năm mươi vạn

binh lực quân Tống,

sau khi

huyết chiến

ba ngày

ba đêm,

một

trận liền giành lại được cựu đô Khai Phong.

Thế trận Trung

Nguyên rất

nhanh đã

thay

đổi,

không

đến

một tháng,

quân

Kim

thất

bại toàn diện,

tin tức các nơi

đều

là thắng lợi, giống

như bông tuyết

hạ xuống bàn Triệu Viện.

Trong những

tin

tức này,

phấn khởi nhất chính là Kim quốc Hoàn Nhan Ung

tỏ vẻ nguyện ý

trả lại Mạt đế* Triệu Hoàn

hiện vẫn còn đang ở Ngũ Quốc Thành – Bắc Tống,

hy vọng

hai

bên có

thể dừng

tay,

lấy

biên cảnh Bắc Tống làm ranh giới,

hai

bên là nước láng giềng,

không còn đòi của cải cống nạp

hàng năm.

(*末帝 Tên gọi của các vị vua mất nước)ĩ

Thời

điểm

Triệu

Viện

nhìn

thấy

Hoàng đế

Kim quốc rốt cuộc buông tha cho yêu

cầu

cống

nạp hàng năm, không

khỏi

cười

ha hả, nói

với

tùy tùng bên cạnh: “Đã bảy tám

năm

không

nạp

rồi,

đây là Hoàn Nhan Ung

biết

không thể

quay

lại,

mới

nói thế này!”

Trong mấy năm này,

Trương Tuấn

bởi vì

tuổi cao,

đã chết

bệnh,

Sử Hạo cũng

bởi vì ra sức chủhòa

bị phong

thành Thái Sư không có

thực quyền,

Tể

tướng

hiện

tại là Ngu Doãn Văn

trong lúc Bắc Phạt giành được uy vọng cùng

thanh danh,

phó

tướng

tham gia chính sự còn lại là Trần Tuấn Khanh được

biết đến là người là cương

trực ngay

thẳng.

Lúc

này Ngu Doãn Văn đang ở bên

cạnh Triệu Viện,

nghe Triệu Viện

nói vậy,

cũng

cười

nói: “Bệ

hạchuẩn bị

lúc

nào

rời đi?”

Triệu Viện sững sờ,

lập

tức

bừng

tỉnh,

chính mình rốt cuộc có

thể

trở về cố đô Biện Kinh rồi.Thời kỳ Tĩnh Khang,

Biện Kinh rơi vào

tay giặc,

thời gian đã qua

ba mươi

hai năm,

một lần nữa giành lại.

Triệu Viện khẽ nâng mắt,

trong điện không có cái người mà

bản

thân muốn nhìn

thấy nhất,người kia có lẽ

hiện

tại đang đóng giữ ở Hà Bắc –

biên giới Tống Kim,

nhưng

bản

thân

hy vọngthời điểm

trở về Biện Kinh,

người kia có

thể đứng ở vị

trí gần mình nhất.

Một

lúc sau Triệu Viện

mới

nói: “Viết

thư

hỏi Chính Bình

một

chút,

xem

hắn

lúc

nào



thời gian,

trẫmmuốn

cùng

hắn

trở về

cố đô.”

Ngu Doãn Văn

nghe

thấy

lời

này

của Triệu Viện,

trong

lòng

thở dài,

khom

người

nói: “Thần

tuân

chỉ,sẽ phái

người đến

hỏi Tiêu

tướng.”

Lúc Tiêu Sơn

nhận được

thư

của Ngu Doãn Văn,

đang đứng

tại bình

nguyên

(*đồng bằng)

Hà Bắcnhìn về Yên Kinh*

(*Bắc Kinh

thời

nay)

nơi xa,

cũng

chính



thủ đô

thời

hậu

thế.

Thời

đại này Yên Kinh không có

bao

nhiêu

người, bởi vì

từ khi bắt

đầu

thời

kỳ Ngũ Đại, khu

vực

Yên Vân đang bị

Liêu

Quốc

nắm

giữ,

cho đến sau khi

Kim

diệt

Liêu,

tức

thì nhập vào địa bàn

của

Kim Quốc,

mấy trăm năm cũng không thuộc

về Tống.

Nhưng

thời

điểm

Tiêu

Sơn

đứng

ở bình nguyên Hà Bắc, tuy

rằng

nhìn

không tới

thành trì

Bắc

Kinh,

nhưng chỉ

cần

nhìn

về phía kia, trong lòng liền có một

loại

xúc

động

cùng

tình

cảm kỳ lạ.

Kiếp

trước

của

hắn

từ đi

lính,

đến được đề bạt*,

đến sau

này khi

tiến vào đại

học Quốc phòng,

đều ở Bắc Kinh.

Trong

cảm

nhận

của

hắn,

nơi đây

mới

thật sự



thủ đô

cùng

trái

tim.

Hắn

thậm

chí



thể

nhớlại,

tào phớ Bắc Kinh

cùng

con

người và

mùa xuân ở Vương Phủ Tỉnh*.

Những ký ức

này đã sớm đóng

chặt

trong

trí

nhớ

của

hắn,

nhưng

hiện

tại

rồi

lại vô

tình ùa

ra.

Hắn

hiểu được Yên Kinh

lúc

nàycùng

hậu

thế



hoàn

toàn khác

nhau,

nhưng

hắn vẫn



thể phác

họa

ra khung

cảnh

của Trường Thành,

Bát Đại Lĩnh,

Sơn Hải Quan

một

cách



ràng.

(*Nguyên văn là 提干nói chung là trong lúc làm lính có biểu hiện xuất sắc nên sau khi tốt nghiệp đc cử đi học ở viện quân sự.)

(**Là một trong những phố mua sắm nổi tiếng nhất của Bắc Kinh. Vào thời nhà Thanh, 8 khu nhà quý tộc và công chúa đã được xây ở đây sau khi một giếng nước ngọt đầy nước được phát hiện ở đây, do đó tên phố là “Vương Phủ” (nơi ở của bậc vương) và “Tỉnh” nghĩa là “giếng”.),

Tiêu

Sơn có chút sững sờ,

năm

đó mộng tưởng khi xuyên qua thời không này,

hôm nay đã

thực

hiện

được, nhưng không biết vì cái

gì,

lại càng cảm thấy bất an.

Có lẽ là

nghĩ

tới mấy chục năm sau

– Thành Cát Tư

Hãn

càn quét đại lục Á Âu, có

lẽ là nghĩ đến

lịch

sử ô

nhục

của

Trung

Quốc

cận

đại,

hoặc

có lẽ

là nghĩ tới đủ

loại

sự tình của Thiên Triều,

hắn

cũng

không

rõ lắm. Chẳng

qua là hắn

thích đứng trên thành lâu Chân Định, nhìn về

phương Bắc tưởng như quen thuộc rồi lại

là nơi chưa từng đặt chân đến

trong thế

giới

này.

Ngũ Loan

nhận được

thư

của Ngu Doãn Văn,

chờ đến khi y

leo

lên

thành

lâu,

đi

tìm Tiêu Sơn,

thấychính



một

cảnh

như vậy.

Tướng quân một

thân

thiết giáp

hôi

bào

(*áo choàng màu

tro),

tay vịn

thành lâu lạnh lẽo,

bất động nhìn về phương Bắc,

giống như một pho

tượng

trong ánh

trời chiều.

Ngũ Loan đi qua: “Tướng quân,

triều đình



thư.”

Ban đầu Tiêu Sơn không quen xưng

hô kiểu này,

nhưng đã nhiều năm như vậy,

hắn đối với xưnghô này đã không còn xoắn xuýt như lúc

trước,

hắn cũng không quay người,

chỉ

hỏi: “Viết gì?”

Ngũ Loan

nói: “Bệ

hạ

hỏi

người,

lúc

nào



thời gian,

quay về Kiến Khang

một

chuyến,

triều đìnhchuẩn bị dời đô đến

cựu kinh.”

Tiêu Sơn ừ một

tiếng,

gật đầu,

khóe môi

băng lãnh dần

hòa

tan,

hơi nhếch lên,

một nụ cười

hiện lên

trên mặt

hắn.

Đã mấy

tháng chưa nhìn

thấy Triệu Viện rồi,

trong lòng rất nhớ y.

Đến bây giờ Tiêu Sơn

cùng Triệu Viện đã

cùng

nhau bảy

tám

năm

rồi,

lúc

trước

thời điểm

chỉ

cầnnghĩ

tới Triệu Viện

liền



loại xúc động

muốn đè y xuống

như

thế

nào

cũng áp

chế không

nổi,

rốtcuộc đã

chậm

rãi

nhạt đi,

nhưng

lại

nhiều

hơn

một phần ấm áp

cùng

lo

lắng,

những

năm

này

chínhmình vẫn

luôn không



nhà,

thời điểm

nhìn

thấy

người

chung quanh

lần

lượt kết

hôn,

con

cái

thànhhàng,

Tiêu Sơn



chút

hâm

mộ,

nhưng

chỉ

cần vừa

nghĩ

tới Triệu Viện,

liền

cảm giác

chỉ

cần



thể ở bên

cạnh y

là đủ,

che

chở bảo vệ y,

là kết

cục

tốt

nhất

của

mình.

Triệu Viện

hôm nay,

kết cục khẳng định

bất đồng với cái người uất ức mà chết

trong

thâm cung của lịch sử.

Đương nhiên sẽ khác,

Triệu Viện Bắc Phạt

thành công,

đoạt lại được cựu kinh,

cho dù mình đi đâu đến đâu,

nghe đều là lời

tán

thưởng

từ

tận đáy lòng của dân chúng cùng

binh sĩ,thậm chí còn có người dựa vào chuyện Triệu Viện là con cháu của Triệu Khuông Dận

(*赵匡胤),biên ra không ít chuyện

thần

thoại cùng

truyền kỳ.

Hiện

tại Triệu Viện nói một câu,

lập

tức

trởthành

thánh chỉ,

không người nào dám cãi lời,

cũng không có ai muốn cãi lời.

Uy vọng của y

trong mấy đời Tống Đế,

trở

thành Thánh Minh

(* sáng suốt như thánh)

Thiên

tử chân chính

trong miệng dân chúng.

Chỉ cần nghĩ đến

bốn chữ “Thánh Minh Thiên Tử”,

cũng có một phần công lao của mình,

Tiêu Sơn liền không nhịn được

hơi cong khóe miệng.

Chỗ nào có y,

nơi đó là nhà.

Tiêu Sơn không ở lại Chân Định quá lâu,

đến đêm liền dẫn nghìn kỵ

binh

trở lại Kiến Khang,

dọc đường đi cũng không đi quá nhanh,

thậm chí có cơ

hội còn nhìn ngắm phong cảnh xung quanh.Hắn cũng không nóng nảy đi gặp Triệu Viện,

bởi vì về sau

hai người sẽ còn rất nhiều rất nhiềuthời gian.

Mười

ngày sau Tiêu Sơn đến Kiến Khang,

sau khi gặp

mặt Triệu Viện,

liền ở

lại

tẩm

các.

Loại

chuyện

này

cũng không phải

lần

một

lần

hai,

đã đến

tình

trạng

này,

hai

người

cũng không

còn

cố kỵ

thân

tín bên

cạnh

nữa

rồi,

Tiêu Sơn ôm Triệu Viện,

ôn

nhu

hôn y,

dùng phương

thức

cùng

tiết

tấu khiến đối phương vui

thích,

chậm

rãi

ra vào.

Cho dù Tiêu Sơn

hiện

tại đã không đến

mức

lập

tức bắn,cũng không

còn giày vò suốt đêm vẫn không

mệt

mỏi,

nhưng

thời điểm

hắn ôm Triệu Viện,

cảmthấy

tình

cảm không

hề giảm sút,

ngược

lại

càng

thâm sâu,

phảng phất giống

như

loại

rượu

cất

lâunăm,

mặc dù không kích

thích giống

rượu

mạnh

cay

nồng,

nhưng

lại khiến

người

ta

càng

thêm say

mê yêu

thích không buông

tay.

Ba ngày sau cỗ kiệu của Triệu Viện chính

thức khởi

hành,

bởi vì là dời đô đến cựu kinh,

đội ngũtrùng

trùng điệp điệp,

chỉ là đội ngũ cầm cờ,

đã

trên vạn người,

càng không cần phải nói đến rất nhiều quan viên cùng

hậu cung nữ quyến,

còn có

thân là Thái

thượng

hoàng Triệu Cấu nữa.

Lần

này khởi

hành

trọn vẹn

một

tháng,

mới đến Biện Kinh.

Thời

điểm

đến Biện Kinh,

đúng

vào buổi sáng mùa xuân tháng ba, quan viên thành Biện Kinh đã sớm

nhận

được

tin

Hoàng

đế dời đô, Hoàng cung tại Tĩnh Khang trong thời kỳ chiến hỏa đã

bị hư

hại

rất nhiều,

không còn

chút

bóng

dáng

của

ngày

xưa,

nhưng

về sau khi Hoàn Nhan Lượng xâm lược phía Nam

đã từng phung

phí tu sửa

qua

một lần, so với

Hoàng cung Bắc

Tống

thì

càng thêm

tráng

lệ.

Triệu Viện

trong

tiếng

hô của

bách quan cùng dân chúng

hai

bên đường mà

tiến vào Hoàng cung,

Thái Cực Điện vang

tiếng

tấu nhạc,

Triệu Viện đội miện quan mặc áo

bào

thêu nhật nguyệt

thập nhị

hoa chương*,

đứng

trong đại điện,

tiếp nhận cái lạy của vạn dân,

y đã sớm không còn

bộ dạng của

thiếu niên năm đó,

Triệu Viện

ba mươi

hai

tuổi

thoạt nhìn càng

thêmtrầm ổn,

trên mặt

hiện ra

thần sắc kiên nghị.

Duy chỉ có ánh mắt của y,

thời điểm rơi vào người Tiêu Sơn đang đứng

trước đội ngũ,

trong đó là ôn nhu cùng quyến luyến,

giống như

trước kia.

(Trung Quốc xưa trên lễ phục của đế vương cùng quan viên bậc cao có thêu mười hai loại hoa văn trang trí.)

“Các khanh

bình

thân!”

Giọng nói uy nghiêm của Triệu Viện vang vọng khắp đại điện,

“Đại Tốngta có

thể giành lại cố đô,

nỗi nhục được rửa sạch,

là niềm vui của quốc gia.

Bắt đầu

từ

hôm nay nghỉ

ba ngày,

không cần

tảo

triều!”

Cùng ngày,

Triệu Viện giống như những

bậc đế vương

trước kia của Đại Tống,

duyệt

binh vùng ngoại ô,

Tiêu Sơn dẫn

hai mươi vạn đại quân đóng

trong Kinh,

theo

thứ

tự đi đến

trước mặt Triệu Viện,

hô vạn

tuế,

quân uy

hùng dũng,

vô cùng chói mắt.

Ngày

hôm sau



hưu

mộc,

Triệu Viện sai

người

truyền Tiêu Sơn vào

cung,

hai

người sóng vai,

dưới gốc

liễu

trong Hoàng

cung Biện Kinh,

mắt

hướng về

nhau,

thái giám

cung

nữ

chung quanh đều

thứcthời

lui

ra,

để

cho

hai

người không gian

riêng.

Hai

người

liền

hôn

môi dưới ánh

mặt

trời

ngày xuân,

xung quanh



mùi

hoa

thơm

ngát,

tiếng

chim êmtai,

nụ

hôn

này phá

lệ

ngọt

ngào,





ngàn

lần vạn

lần

cũng không

chán ghét.

Tiêu

Sơn dùng mũi mình cọ

cọ mũi Triệu Viện:

“Viện

Viện, ta

yêu ngươi!”

Triệu Viện vẫn mỉm cười như cũ,

lúc này đây y không giống như những lần

trước,

dùng “Ta

biết,ngươi đã nói rất nhiều lần rồi”

để

trả lời,

mà là sau khi nhìn Tiêu Sơn một lúc lâu,

trịnh

trọng nói: “Ta cũng yêu ngươi!”

Hai

người ôm

nhau

thật

chặt,

nụ

hôn dường

như vĩnh viễn sẽ không đứt đoạn.

Tiêu

Sơn cảm thấy Triệu Viện trong

ngực

hôm nay đặc biệt đẹp, hắn

theo

môi

Triệu

Viện

hôn

thẳng

một

đường

xuống dưới, bắt đầu

mở ra đai

lưng

của

đối phương.

Nhưng

rồi

vào lúc đó, sau

bóng

cây

bỗng

truyền đến

một

tiếng

ho khan,

Tiêu

Sơn cùng Triệu

Viện

đều giật mình,

cùng

nhau

nhìn

qua,

đã thấy một người mái tóc

hoa

râm bước ra.

Không phải

ai khác,

chính



người vừa

cùng Triệu Viện

trở

lại

cựu kinh,

trở

lại

chốn

cũ – Thái

thượnghoàng Triệu Cấu.