Về nhà mấy hôm, Hưng cứ rúc ở góc tường mà ôm đầu. Ông Hùng hỏi gì cũng không nói, vì gã vẫn còn toan tính xem là rốt cuộc mình có nên đồng ý với Việt hay không. Nhưng cuối cùng cái sự cám dỗ của đồng tiền quá lớn, khiến gã không sao cưỡng lại được.
Hai hôm sau, không chờ Việt gọi điện, Hưng đã bắt xe thẳng lên thành phố để gặp Việt, và đồng ý với việc là mình sẽ trở thành người quản lý cả cái xưởng ấy thay cho Việt. Đổi lại là món lợi nhuận kếch xù, và cái việc gϊếŧ người để lấy máu nhuộm lụa cũng không phải là Hưng làm.
Việt đồng ý ngay, và gã đưa tiền cho Hưng, hối Hưng về làng gấp để hôm sau cùng ông thầy địa lý lần trước qua xem đất chọn ngày để mở xưởng.
Xưởng nhuộm lụa nhanh chóng được chọn xây ở một khu đất gần với nghĩa trang làng Đại, cách làng Vạn chừng mười cây số. Ông thầy địa lý nói rằng nơi ấy gần với âm khí, nên rất có ích cho việc nhuộm lụa. Chỉ có điều xưởng lụa này mở ra mười năm, là phải đổi địa điểm khác, nếu không muốn âm khí quật lại mà gϊếŧ luôn cả chủ.
Ba tháng sau, xưởng nhuộm lụa chính thức được khánh thành. Với số lượng nhân công chỉ khoảng mười người, hàng tá những thứ thuốc nhuộm được chuyển về, và chỉ chờ một mẻ thuốc nhuộm lụa đầu tiên để mở xưởng.
Một tuần sau, Việt đích thân lái một chiếc xe Oát xuống làng Đại, đi cùng với gã là một cô gái độ chừng tuổi hai mươi, nét mặt hết sức xinh đẹp tươi tắn.
Cô gái đi cùng Việt vào trong xưởng lụa và từ đó không còn thấy quay ra nữa. Vài ngày sau thì thứ lụa bí truyền hàng trăm năm cuối cùng cũng được bắt tay vào làm. Hàng loạt mẻ lụa lớn nhỏ cứ tăm tắp ra lò đều đặn, với chất lụa bỏng bảy mềm mượt. Lụa được phơi khô và cất đi để thật kĩ qua ba năm, rồi mới đem ra chào bán.
Khi thứ lụa được chính thức tung ra thị trường, hàng loạt những hiệu buôn lớn nhỏ từ thành phố đổ xô về mua, dẫu dù là giá cao cắt cổ nhưng cũng vẫn hết hàng.
Hưng từ một tên khố rách áo ôm, bỗng chốc trở thành một phú hộ có đất đai đồn điền rộng lớn vô kể. Ông Hùng đến khi này mới phát hiện ra việc làm táo tợn của Hưng nhưng đã là quá muộn, ông tức đến hộc máu ở trong miệng rồi sau đó cũng chết.
Căn nhà của ông Hùng ngày xưa rách nát, trông nghèo rớt mùng tơi, thì nay ngay bên cạnh cái nhà cũ ấy đã được xây nên một căn nhà xây mới khang trang tiện nghi, đồ đạc nội thất trong nhà toàn là những thứ sang trọng mua từ thành phố về, lại còn cả chiếc xe hơi mới cóng mà Hưng mới tậu được dăm bữa.
Việc ông Hùng chết không khiến Hưng và Việt dừng lại được bàn tay của tội ác. Khi xác ông Hưng chết còn chưa kịp hết hơi ấm, thì hai kẻ ác tâm cũng nhân lúc vắng người mà lén lút chích lấy hết sạch số máu của ông dồn vào trong hũ để ủ ngâm dần làm màu thứ lụa quý.
Mỗi một lần làm một mẻ lụa quý, là phải có một mạng người chết. Mà mỗi lần một người chết ấy, cái tình yêu thương của họ càng lớn dành cho mình thì thứ lụa càng đẹp. Vậy nên máu của ông Hùng mà dùng để làm thứ lụa quý, thì không còn gì có thể đẹp hơn. Và những tấm lụa làm ra từ thứ máu này, có thể khiến cho giá trị của những tấm lụa cao lên vô số lần.
Lại kể đến họ Phùng ở bên làng Vạn, ngày xưa thì cứ cấm cửa Thúy không cho qua lại với Hưng. Nhưng mấy năm nay Hưng làm ăn phất lên, còn nhà họ Phùng thì lại lụi bại dần. Nên lão Quyền liền trở mặt xoay như chong chóng, lão cứ lân la đến gần Hưng mà muốn nối lại mối duyên xưa của Hưng với Thúy.
Hưng ngày nay đã chẳng giống như ngày xưa, con mắt gã ngày xưa chỉ bao quát trong cái làng nhỏ bé này. Còn giờ này thì gã đã phóng tầm mắt ra xa đến tận thành phố, nơi ấy có những cô gái còn đẹp hơn Thúy nhiều lắm. Lão Quyền càng muối mặt muốn đến lấy lòng gã, thì chỉ làm cho gã cảm thấy khinh thường thêm mà thôi. Còn về việc của gã với Thúy, gã cũng muốn tính đến nhưng cũng vẫn muốn làm lão Quyền phải mất mặt thêm vài lần rồi mới đặt vấn đề. Nhằm trả thù cái việc mà ngày xưa lão Quyền đã khinh thường gã như thế nào, thì ngày nay tất phải trả giá bằng hậu quả đích đáng.
Hưng muốn dày vò cái họ Phùng, rồi dùng thế lớn mà ép cho con đường làm ăn của họ Phùng đi đến hồi lụi bại. Để rồi đến lúc họ Phùng khố rách áo hôm còn hơn gã ngày xưa, lúc ấy thì gã mới đưa tay đỡ lấy mà giúp đỡ nhà họ Phùng, lấy lại cái quyền thế ngày xưa của dòng họ Lã mà gã vốn dĩ ra phải được hưởng. Vì chính họ Phùng cũng chỉ là thứ bề tôi kẻ hầu người hạ của nhà họ Lã ngày xưa mà thôi, vậy mà lại dám vượt mặt thì phải bị gã trừng trị.
Mấy năm sau nữa, quả nhiên họ Phùng chết thật. Nhà họ Phùng chuyên buôn bán đồ gốm sứ, thì nay không hiểu sao gốm sứ của nhà họ Phùng cứ không đảm bảo chất lượng, chỉ được dăm bữa là vỡ, dẫn đến những mối hàng quen cũng mất dần. Việc làm ăn thất bại khiến cho gia cảnh nhà lão Quyền đi vào con đường nghèo túng.
Lão Quyền nhiều lần qua hỏi mượn Hưng ít vốn để làm ăn, và vịn cớ tình thân của Hưng với Thúy ngày xưa để đưa ra làm con bài vay vốn. Nhưng Hưng chửi lão Quyền, Hưng chửi đến mức lão Quyền nhục nhã không còn mặt mũi nào để gặp vợ con. Nghĩ đến gia thế ngày xưa và ngày nay của mình, lão Quyền không nhịn được, mấy đêm sau liền mò ra bờ đê, nhảy xuống sông mà tự vẫn.
Xác lão Quyền trôi dạt về đâu không biết, người ta tìm cả nửa tháng trời mà chẳng thấy. Người nhà Thúy vì không tìm thấy xác, nên chỉ đành lập một cái bia mộ không để thờ cúng.
Hưng sau khi trả thù được lão Quyền, thì mới đặt vấn đề với nhà họ Phùng, muốn hỏi cưới Thúy về làm vợ.
Bà Xuân là mẹ của Thúy giờ chỉ là người đàn bà góa bụa, nhà lại nghèo không lo được cho Thúy. Thằng con thứ thì năm nay lại đang cần tiền đi học đại học, cho nên dù có thù hận Hưng đến như thế nào về cái chết của chồng mình, bà vẫn phải cắn răng chịu đựng mà gả con gái cho Hưng.
Hôn lễ được cử hành long trọng, từ thành phố có nhiều vị khách sang trọng muốn nhân dịp này đến chúc mừng Hưng, để lấy lòng Hưng mong rằng gã sẽ ưu tiên bán lụa cho mình. Còn Việt thì cũng huy động một lực lượng hùng hậu đến chúc mừng đám cưới của Hưng. Gã thuê nhiều tên đàn em đến để làm lực lượng an ninh hoành tráng trước đám cưới, rồi thuê hẳn cả ca sĩ nổi tiếng từ thành phố về. Lại đặt mua cả viên kim cương đắt nhất trong tiệm nữ trang số một Hà thành, về để mừng cho mợ mới của cậu.
Đám cưới lớn nhất cả khu làng quê, vang dội khắp cả một vùng về độ chịu chơi khiến cho Hưng mát lòng mát dạ. Cái lý tưởng ngày xưa của gã, cái ước mơ gã cho là viển vông thì nay đã thành sự thực, và bao nhiêu kẻ đã khinh thường gã giờ đây đã đều phải quỳ gót dưới chân gã mà cầu xin gã tha thứ như gã hằng mong muốn.
Kẽo kẹt!
Tiếng cửa tiệm tạp hóa mở ra, cái tiệm tạp hóa ngày xưa là duy nhất của phố huyện, buôn bán vào hạng độc quyền. Thì nay lại trở nên ế ẩm vì chẳng có mớ khách nào, là vì trước cửa cái tiệm tạp hóa từ lúc nào đã mọc lên một cái siêu thị cỡ nhỏ với đủ thứ mặt hàng trong đó. Khiến cho cửa hàng được tiếng độc quyền và làm ăn đắt hàng giàu có đến như thế cũng phải đến hồi kiệt quệ vì mất khách.
Một người đàn ông quần áo sang trọng, dáng vẻ hết sức quyền uy bước vào trong cửa tiệm. Mụ chủ tiệm lười nhác quạt phe phẩy cho đỡ nóng, một tay lại cầm cái chổi lông gà quét quét phủi bụi mấy thứ đồ tạp hóa mà lâu nay chẳng bán được thứ nào.
Chợt mụ thấy đột nhiên lại có khách bước vào cửa tiệm của mình, hơn nữa lại còn là một người khách sang trọng thì không khỏi vui mừng. Giọng mụ xởi lởi mừng như điên nói:
– Ôi thằng em đẹp trai, muốn mua gì thế để chị chỉ cho?
Mụ hớn hở đứng dậy, thì bị người đàn ông quát cho một trận nói:
– Sao bà vẫn còn dám ngồi đây, cửa tiệm này đã được lệnh là giải tỏa rồi cơ mà. Giờ đây khu đất này đã là quyền sỡ hữu của tôi, tôi sẽ đập nó đi và xây lên một tòa nhà lớn ở đây. Tôi đã cho người đến báo bà chuyển đi mấy lần rồi, mà sao bà vẫn không chịu hiểu hả?