Tấm chăn đỏ bị vung qua một bên, cùng với xác Khanh nằm ở dưới bánh xe cách đó chỉ độ chưa đầy nửa mét.
Từng tiếng kêu gào rú, tiếng khóc ảo não rợn người vang lên khiến ai nấy đều kinh hồn táng đảm. Còi xe tải vẫn rú mà không cách nào tắt đi nổi, chính người lái xe tải cũng hãi hùng vì không biết tại sao lại có một người đứng ở giữa đại lộ vào ban đêm như vậy. Chính vì trời đêm như vậy anh ta chủ quan nơi đường vắng không có người, nên mới phóng xe chạy nhanh đi qua đây, nhưng không ngờ lại gây ra tai nạn.
Từng thảm họa kinh hoàng xuất hiện, từ lúc tấm chăn đỏ này được Huân mang về.
Đến khi này Tiến đã không thể im hơi lặng tiếng, anh liền họp mọi người lại một chỗ rồi nhìn Huân phân tích nói:
– Khi mới ban đầu nhìn thấy cái chăn, lại cộng thêm sự miêu tả của cậu về cách cậu lấy được nó. Tôi đã biết được rằng rất có khả năng nó chính là tấm chăn trong một đoạn tư liệu truyền thuyết. Chỉ có điều tôi không cho rằng đó là sự thật, vì chỉ tin rằng nó là truyền thuyết, nhưng thật không ngờ…
Huân từ lúc nào đã chạy ra đại lộ lấy lại cái chăn đỏ, và lúc này anh đang ôm khư khư cái chăn trong tay nghe Tiến trình bày. Nghe thấy Tiến nói đến đây, không ít người liền hiếu kỳ. Một người phụ nữ khá đứng tuổi, tên Hòa cất giọng hỏi:
– Chú nói vậy là sao hả chú Tiến, cái truyền thuyết ấy là gì, chú có thể kể lại rõ ràng được không?
Tiến gật đầu hắng giọng nói:
– Tất nhiên là được! Nhưng chỉ có điều trước khi kể, tôi có một lời đề nghị nho nhỏ. Là cậu Huân có thể đem tấm chăn ấy đi đốt bỏ được không?
Huân lắc đầu, vẫn cứ ôm khư khư lấy cái chăn, nhất định không đồng ý với cách làm của Tiến. Tiến thở dài bất đắc dĩ, không còn cách nào khác bèn kể lể lại tường tận.
Đoạn tư liệu ấy có trong một cuốn sách của Nga, là một đoàn thám hiểm của bọn họ thời cuối kỳ dân quốc của Trung quốc đã đến thám hiểm quốc gia này. Và cũng phát hiện ra một tấm chăn tương tự như vậy của một phụ nữ người Miêu ở Vân Nam. Đoàn thám hiểm này sau cùng gần như chết toàn bộ, người duy nhất sống sót kể lại câu chuyện rằng anh ta đã lạc vào một thế giới của những con quỷ. Thế giới ấy được người Miêu cổ miêu tả lại là một vương triều của quỷ. Vương triều này tồn tại song song với thế giới thực, cứ mỗi một trăm năm thì lại có một tấm chăn đỏ xuất thế, lấy mạng người để nuốt đủ số máu, khiến cho cổng vương triều được mở ra. Sau đó sinh ra chiến loạn và thu thập đủ thi cốt xây dựng thành một tòa lâu đài xương người. Khi tòa lâu đài này xây dựng xong, cũng là lúc nữ chúa quỷ hồi sinh. Khi ấy sẽ là điểm kết thúc của một dân tộc… Truyền thuyết này được người Miêu kể lại, và câu chuyện xác thực được đoàn thám hiểm kia cũng xác nhận. Sự việc ấy chỉ khiến cho người khác chê cười, khiến nó thành một đoạn tư liệu bị lãng quên mà không mấy người cho là thật.
Tiến chép miệng rồi nói:
– Thật không ngờ, những thứ chỉ có trong truyền thuyết của người Miêu, lại có thể một lần xuất hiện trước mắt tôi. Chính tích truyện ấy là nguyên nhân sâu xa hơn giải thích vì sao dân tộc Miêu lại bị tan vỡ, và lưu lạc khắp các quốc gia. Âu cũng chính là do nữ chúa quỷ đó đã hồi sinh một lần…
Huân nghe Tiền kể xong, liền trầm trồ nói:
– Anh Tiến, nếu những điều mà anh nói là thật, thì quả thực là tôi đã nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người đó!
Tiến chợt hoảng sợ đứng phắt dậy, anh ta chợt hỏi dồn:
– Cậu nói cậu đã từng nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người? Vậy thì hỏng rồi!
Khuôn mặt Tiến dần chuyển sang tái mét, Hòa liền cất giọng hỏi Tiến:
– Sao vậy?
Tiến nói:
– Nếu như quả thực là cậu ta nhìn thấy tòa lâu đài bằng xương người, thì hẳn là nữ chúa quỷ phải được hồi sinh rồi mới đúng. Nếu vậy thì sẽ có không ít người chết đâu!
Nhưng Huân lại cười:
– Anh Tiến đừng sợ, em nói nhìn thấy, là hình như trong ảo giác thì phải, khi trong lúc ảo giác ấy. Hình như chính tay em đã phá hỏng nó, bởi vì khi em vừa mới chạm vào, thì tòa lâu đài ấy đã bị vỡ vụn ra thành bụi…
Tiến lắc đầu nói:
– Ảo giác cũng không thể xem thường, vì nếu là ảo giác ấy đã mở ra thì chứng tỏ là cánh cổng dẫn đến vương triều của quỷ đích thực thật tồn tại. Nếu điều đó là thực, thì đốt bỏ tấm chăn cũng không ích gì. Vì khi cậu đốt bỏ nó, theo như lời đoàn thám hiểm kia, nó sẽ lại hiện lên. Cách duy nhất là chỉ có thể đem tấm chăn này đặt lại y nguyên chỗ cũ. Hay chính xác hơn là đem nó ném lại vào cánh cổng ấy, để cho cánh cổng vĩnh viễn đóng lại. Chúng ta phải làm điều này thật nhanh, nếu không tất cả sẽ chết hết!
Hiếu, một thanh niên trong đoàn chợt cất giọng cười nói:
– Ôi bác Tiến cứ đùa, những chuyện tai nạn như vậy chỉ là trùng hợp, bác cũng không nên vì mấy việc này mà căng thẳng quá như vậy. Theo tôi thấy, trước hết chúng ta cần phải trình báo những chuyện này cho cơ quan chức năng biết. Chết hẳn ba mạng người thì không phải là chuyện đơn giản đâu. Còn phải báo sớm cho công an để bắt Liên lại, cô ta điên rồi… Không biết còn sẽ làm ra những hành động dại dột gì!
Nghe Hiếu nói như vậy. Tiến không cho là đúng, anh nói:
– Được rồi, nếu cậu không tin, thì đoàn chúng ta tách làm hai nhóm. Một nhóm về thị trấn Nậm Nhùn báo cho lực lượng chức năng biết để đến giải quyết. Một nhóm còn lại theo tôi và cậu Huân tới nơi mà cậu ta phát hiện ra tấm chăn này, và trả về chỗ cũ. Mọi việc cần phải giải quyết nhanh chóng trước khi trời sáng.
Nghe Tiến phân tích, hơn một nửa số người trong đoàn đồng ý, và bọn họ chia đôi số người ra. Một nhóm thì đi theo Hiếu, nhóm còn lại đi theo Tiến. Nhóm của Tiến gồm có Huân, Hòa và Đức. Nhóm của Hiếu thì có Lương, Triều và Nghĩa.
Hai nhóm chia đôi mỗi nhóm chọn một hướng ngược nhau từ khúc cua mà phóng xe đi thẳng.
Từ lúc này đến khi trời sáng còn khoảng ba tiếng đồng hồ nữa. Mọi chuyện cần phải làm thật nhanh trước khi trời sáng, hơn nữa theo như lời Tiến nói. Nếu không giải quyết nhanh chóng tấm chăn đỏ, thì số lượng người chết sẽ tiếp tục tăng lên.
Theo lời kể của Huân, bọn họ nhanh chóng tìm được lối đường mòn mà Huân đã đi lạc, sau ba mươi phút đi đường.
Con đường nhỏ ấy phải khuất sau một cái gốc cây bạch đàn thật lớn. Xa xa có thể dõi theo là những nương ngô xanh mơn mởn. Trời đêm tối đen, nên nhóm người không thể nhìn rõ quang cảnh của nương ngô, chỉ có thể nghe thấy tiếng gió xào xạc kêu loạt xoạt bên những rặng ngô kéo dài.
Còn đường mòn nhỏ đâm sâu vào trong thâm cùng ngõ hẻm của những ngọn núi heo hút nhất.
Mới đầu còn thấy một vài làng bản, vào sâu trong nữa thì chỉ còn thấy những ngôi nhà lác đác thưa thớt trống chọi duy nhất bên sườn đồi để canh nương ngô.
Vào sâu thêm trong nữa thì chỉ còn lại những căn chòi canh nương xiêu vẹo lệch lạc như đã từ lâu không có người ở.
Cuối cùng, nhóm người của Tiến cũng đã tìm ra điểm kết thúc của con đường. Và quả đúng như lời Huân miêu tả, ở đoạn cuối con đường quả thực là có một ngôi nhà nhỏ xíu như ngôi nhà ma vậy. Ngôi nhà nằm chính diện ở cuối con đường mòn, và ở phía sau nó thì không còn bất cứ một lối đi nào nữa cả.
Nhóm người đồng loạt dừng lại trước cửa ngôi nhà. Tiến dựng xe một bên, rồi quay sang hỏi Huân:
– Cậu chắc chắn là mình đã lấy tấm chăn này ở đây có đúng không?
Huân gật đầu chắc chắn, rồi chỉ tay nói:
– Em chắc chắn, cái chăn này chính xác là được treo ở cái bờ rào kia. Chính tay em đã lấy nó xuống và đã vào trong căn nhà ấy, và gặp một người đàn bà dân tộc, hỏi mua bà ta tấm chăn này.
Tiến nhíu mày cảm thấy kì lạ, nếu tấm chăn này được lấy một cách đơn giản như vậy. Vậy thì cánh cổng địa ngục kia ở đâu ra?
Cuối cùng Tiến gật đầu nói:
– Được rồi, chúng ta đều tiến vào trong hỏi thăm một chút xem sao! Một người ở lại trông xe…