Chương 7
TRONG XE LẠNH TÊ TÁI, Kathryn không thể cầm nổi vô lăng vì quên găng tay do phải rời khỏi nhà quá vội. Bên ngoài lạnh đến mức nào nhỉ? cô thầm hỏi. Âm chín độ? Âm sáu độ? Dưới một mức nào đó, cô nghĩ, mà cũng chẳng quan trọng lắm. Cô cảm thấy hai vai căng ra khi cúi người về trước, cố không chạm vào thứ gì - kể cả lưng ghế - cho đến khi nhiệt độ trong xe ấm lên.
Vừa nghe tin của Robert - anh ta dặn tới dặn lui rằng Kathryn nên tuyệt đối tránh thừa nhận tin đó với bên ngoài - cô chỉ muốn được ở cạnh Mattie ngay lập tức. Khi Kathryn đứng ở chân cầu thang nhìn mặt Robert, lòng mong mỏi được gặp con gái của cô trỗi dậy mạnh mẽ, ào ạt như nước chảy vào lọ. Vẫn mặc nguyên bộ quần áo lúc đi ngủ, cô đã lao qua Robert và gần như cùng lúc xỏ hai tay vào áo lông vịt, mang bốt, và lấy chìa khóa treo trên cửa. Cô lái chiếc Caravan cọc cạch trên con đường dài, tăng tốc qua vài người đàn ông đang chạy về hướng cổng, và giữ tốc độ gần một trăm cây số giờ trên quãng đường dài hơn một cây số. Sau đó chiếc xe trượt bánh tại một khúc cua và dừng lại trên lớp cát ở vệ đường trên con đường từ Fortune’s Rocks vào Ely. Cô im lặng áp trán lên vô lăng.
Không thể nào là tự tử được, Kathryn nghĩ. Tự tử là việc tuyệt đối không thể. Không thể tưởng tượng nổi. Không thể nghĩ tới. Không thể lý giải.
Cô ngồi đấy bao lâu, cô cũng không biết, có lẽ là mười phút. Sau đó cô lại nổ máy, lần này chạy với tốc độ chậm hơn cùng một sự bình tĩnh kỳ lạ - sự bình tĩnh xuất phát từ trạng thái kiệt quệ, có thể như vậy, hoặc đơn giản là từ một sự tê dại giả tạo - đang bao trùm lấy cô. Cô phải gặp cho được Mattie, cô tự nhủ, và điều người ta đang nói về Jack là không đúng.
Mặt trời nhô lên trên đường chân trời, biến những thảm cỏ ngập tuyết thành màu hồng, hắt lên chúng những cái bóng xanh dài của cây cối và xe cộ. Thị trấn thật yên tĩnh, dù thỉnh thoảng Kathryn lại thấy khói bốc lên thành cuộn từ những chiếc xe vẫn mở máy trong lúc đỗ trên đường mòn vào nhà để chủ xe có thể rã đông kính chắn gió và ngồi vào ghế. Dọc mái hiên của một số ngôi nhà treo những sợi đèn màu, cô thấy cây thông Giáng sinh trước các cửa sổ. Cô lái xe ngang qua một ngôi nhà lợp ngói xanh gắn bóng đèn màu sặc sỡ viền quanh khung cửa sổ giả. Giống-cửa-hàng-phụ-tùng-ô-tô, Jack từng bình luận như vậy khi họ lái xe ngang qua đây.
Từng bình luận. Đã bình luận. Sẽ không bao giờ bình luận nữa. Cô nghĩ vỏ bọc thời gian đang bắt đầu thực sự nuốt chửng cô. Nhưng cô tự hỏi chẳng lẽ mình chưa thích nghi, dù chỉ ở một mức cực kỳ nhỏ, với khái niệm về sự vắng mặt của Jack. Ý nghĩ về cái chết của anh, hiện ra ngẫu nhiên sau một ý nghĩ khác - một ký ức về anh, một hình ảnh - không gây tác động mạnh mẽ đến cô như ngày hôm trước. Đầu óc thích nghi nhanh thật, cô tự nhủ, dù chỉ sau một khoảng thời gian ngắn. Có thể là sau một loạt những chấn động, cơ thể đã tự thích ứng, như được cấy ghép - mỗi cú chấn động sau lại gây ảnh hưởng ít hơn. Hoặc cũng có thể trạng thái tê dại nhất thời này chỉ là một sự tạm lắng - một khoảng thời gian đình chiến. Làm sao cô biết được? Cô có bao giờ được tập dượt cho những chuyện như thế này đâu.
Cô lái xe qua trung tâm Ely, ánh sáng giờ đây mới bắt đầu chiếu vào các cửa hiệu, trái đất đang nhích một chút về phương Đông, một tí ti vừa đủ để đưa thị trấn Ely đến với mặt trời. Cô chạy ngang qua cửa hàng dụng cụ trong nhà và Beekman, một cửa hàng đồng giá năm-mười xu vẫn trụ nổi trước sự cạnh tranh của trung tâm mua sắm trên Đường số 24, dù các kệ hàng ở đây thường bám bụi và hàng hóa rất ít ỏi. Cô chạy qua một tòa nhà bỏ hoang, trước đây từng là cửa hàng len và vải sợi, chuyên bán hàng của nhà máy vào thời mà nhà máy Ely Falls còn hoạt động. Cô chạy qua Bobbin, nơi duy nhất trong thị trấn có bán rượu và sandwich. Bobbin đang mở cửa, ba chiếc xe đỗ bên ngoài. Cô đưa mắt nhìn bảng đồng hồ trong xe: bảy giờ năm. Trong mười phút nữa, Janet Riley, giáo viên môn tập đọc ở trường trung học, và Jimmy Hirsch, nhân viên công ty MetLife, sẽ có mặt ở đó để ăn bánh mì vòng phết kem phô mai và sandwich kẹp trứng, theo thứ tự. Kathryn nghĩ đúng là ta có thể chỉnh giờ đồng hồ bằng cách dựa vào thói quen của một số người trong thị trấn, rồi sau đó có thể kiểm tra đồng hồ thường xuyên suốt ngày dựa vào những dân làng khác và sự nhất quán tuyệt đối của họ trong những công việc thường lệ.
Hơn ai hết, Kathryn hiểu rõ về công việc thường lệ, trong nhà của bà Julia, đó là hàng rào để ngăn cản sự xáo trộn. Và, tất nhiên, Jack cũng hiểu rõ điều này - nhất là khi làm công việc đòi hỏi người ta phải trở thành một cái máy, xử lý đúng theo một cách nhất định mỗi khi một chuỗi tình huống cụ thể xảy ra. Nhưng cũng lạ là mỗi lần rời khỏi máy bay, anh lại mất hết kiên nhẫn với những công việc thường lệ. Anh thích nghĩ đến những khả năng và sẵn sàng ứng phó với chúng. Trong hai người, anh luôn là người có nhiều khả năng nói, “Chúng ta đến Portsmouth ăn trưa đi”. Hoặc, “Chúng ta hãy đến trường đón Mattie rồi đi trượt tuyết”.
Kathryn chạy qua trường học nằm giáp ngay trung tâm thị trấn. Tính đến nay, cô đã dạy học ở đó được bảy năm sau khi lấy bằng và dọn trở về Ely. Đó là một tòa nhà cổ kính bằng gạch có cửa sổ lớn, vốn đã cổ kính từ thời bà Julia đi học ở đấy. Số học sinh của trường bây giờ ít hơn thời của Julia, khi các xí nghiệp hẵng còn ăn nên làm ra.
Liên tiếp qua vài dãy nhà là những ngôi nhà màu trắng có cửa chớp đen nằm trong từng lô đất nhỏ, nhiều nhà có hàng rào trắng bao quanh - chủ yếu là nhà mái ngói và nhà hai tầng phong cách Victoria, cũng có một số nhà xây theo phong cách thuộc địa sơ khai - điều đó đem lại cho Ely nét duyên riêng. Nhưng khi đã qua khỏi khu vực này, nhà cửa bắt đầu thưa thớt dần, những vạt rừng nhỏ hoặc đầm nước mặn ngăn cách nhà này với nhà kia, và giãn dần ra như kẹo kéo, cho đến khi chỉ còn lại ngôi nhà đá ở cuối con đường dài năm cây số.
Cô rẽ vào con đường quen thuộc rồi lái xe lên đồi. Đèn chưa sáng, cô đoán Mattie và bà Julia còn đang ngủ. Cô xuống xe, đứng yên một phút. Vào buổi sáng luôn có một khoảnh khắc, giữa thinh lặng của đêm hôm trước và náo nhiệt của ngày hôm sau, khi Kathryn cảm thấy thời gian như ngừng lại một nhịp, khi toàn thế giới bất động, ngóng trông. Mặt đất xung quanh chiếc xe phủ một lớp tuyết bột rơi từ ba ngày trước đến nay vẫn chưa tan. Trên các tảng đá, tuyết đóng băng thành một lớp mỏng.
Nhà của bà Julia nằm trên một ngọn đồi, vì vậy mà đôi khi những việc vặt như xách đồ đi chợ về nhà trở nên khó khăn hơn, nhưng ngôi nhà có tầm nhìn tuyệt vời về hướng Tây, nếu có ai đủ hứng thú để ngắm cảnh. Ngôi nhà rất cổ kính, từ giữa thế kỷ mười chín. Nó từng là nhà nghỉ cho một trang trại ở cách đây hơn một cây số rưỡi. Ngôi nhà được bao bọc bởi một bên là con đường hẹp, một bên là bức tường đá. Bên kia bức tường đá là một vườn táo với những cây táo khẳng khiu mọc ngay ngắn mà mới cuối hè đã cho quả màu đỏ hồng phớt bụi.
Cô đóng cửa xe, đi bộ vào lối đi trước nhà, rồi mở cửa. Bà Julia không bao giờ khóa cửa, lúc Kathryn còn bé cũng vậy, bây giờ cũng vậy, trong khi các nhà khác đều khóa cửa. Trong nhà bếp, Kathryn lần nữa ngửi thấy mùi hương riêng biệt của ngôi nhà - một sự pha trộn giữa mùi bánh bông lan cam và hành tây. Kathryn cởϊ áσ lông vịt ra, vắt lên một chiếc ghế ở phòng khách.
Ngôi nhà rất chật, nhưng cao đến ba tầng. Khi bố mẹ của Kathryn mất, bà Julia đã động viên cô dọn vào phòng của họ ở tầng trên cùng. Sau một hồi đắn đo, Kathryn đã đem lên đấy sách của cô và một chiếc bàn nhìn ra ngoài qua ô cửa sổ đơn. Tầng giữa có hai phòng ngủ nhỏ, trong đó có một phòng của bà Julia, còn ở tầng trệt là phòng khách và nhà bếp. Những món đồ nội thất của bà Julia từ thời mới cưới được bày biện trong phòng khách - một bộ sofa nhung màu nâu bạc thếch, hai chiếc ghế mềm cần được bọc lại nệm, một tấm thảm, một chiếc bàn nhỏ, và chiếc đàn piano đồ sộ chiếm gần hết khoảng trống còn lại.
Kathryn vịn lan can leo lên chiếc cầu thang hẹp để về lại phòng cũ của cô, giờ là của Mattie mỗi khi con bé ngủ lại, thường xuyên. Kathryn đi đến cửa sổ và kéo ga giường xuống một chút để nhìn thấy con nằm trên giường. Mattie đang nằm cuộn tròn, như cách nó thường nằm, con cọp nhồi bông đã rơi xuống sàn tự bao giờ. Kathryn gần như không nhìn thấy mặt con gái - mặt nó úp xuống chăn - nhưng cũng đủ nhìn thấy mái tóc nó xõa ra sau lưng, thấy vóc dáng mảnh mai của nó dưới lớp chăn.
Kathryn khẽ đi đến một chiếc ghế đặt đối diện với giường để có thể tiếp tục trông chừng Mattie. Cô chưa muốn đánh thức con, chưa sẵn sàng chứng kiến cảnh Mattie lại bị những thông tin của ngày hôm trước gây chấn động lần nữa, như cô đã bị chấn động sáng hôm nay. Nhưng khi điều đó xảy ra, Kathryn muốn mình có mặt bên cạnh con.
Mattie nhấc đầu lên khỏi gối, quay qua bên kia, rồi xoay người sang.
Mặt trời đã lên cao, ánh sáng đan qua lớp màn cửa, vạch một đường màu sáng rực lên cạnh bên trái của chiếc giường đôi. Đấy chính là chiếc giường gỗ gụ mà bố mẹ Kathryn từng nằm ngủ, và đôi khi cô lại thắc mắc liệu những đôi vợ chồng thời đó có làʍ t̠ìиɦ nhiều hơn thời này không, đơn giản chỉ vì giường thời đó hẹp hơn. Mattie mơ màng xoay người, như đang ngủ nướng thêm một giờ nữa. Kathryn đứng dậy, nhặt con cọp nhồi bông lên, rồi đặt nó cạnh đầu Mattie. Trong một khoảnh khắc, Kathryn có thể cảm nhận được hơi thở ấm áp của con gái trên ngón tay mình. Sau đó, dường như nhận ra sự hiện diện của mẹ, Mattie cứng người lại. Kathryn theo phản xạ nằm xuống cạnh con, vòng tay qua ôm nó. Cô ôm con gái vào lòng thật chặt, nghe thấy một tiếng thở nấc lên.
“Mẹ ở đây,” Kathryn nói.
Mattie im lặng. Kathryn nới lỏng tay và bắt đầu vuốt tóc con. Mái tóc dày, quăn tự nhiên, luôn như thế vào mỗi buổi sáng. Mattie thừa hưởng lọn tóc xoăn từ Jack, còn màu tóc từ Kathryn. Mattie cũng thừa hưởng từ bố đôi mắt hai màu xanh khiến nó gần đây cảm thấy không vui. Nó nghĩ rằng mang một dấu ấn khác với mọi người khiến nó trở nên đặc biệt. Nhưng khi bước sang giai đoạn dậy thì quan trọng, khi mà bất kỳ đặc điểm nào khiến nó trở nên khác biệt dù chỉ một chút so với bạn bè cũng là nguồn cơn gây khó chịu nghiêm trọng, con bé đã bắt đầu đeo một kính sát tròng để cho hai màu mắt giống nhau. Đương nhiên, nó không đeo kính lúc đi ngủ.
Tấm trải nhúc nhích, như có người đang kéo xuống. Kathryn nhẹ nhàng kéo tấm trải xuống khỏi mặt Mattie. Miệng nó nhét đầy vải, mảnh ga giường trắng nhét thành một cục giữa hai hàm răng.
“Mattie, đừng con. Con sẽ chết ngạt mất.”
Mattie nghiến chặt hàm xuống lớp vải hơn nữa.
Kathryn nhẹ nhàng kéo tấm vải, nhưng Mattie không chịu nhả ra. Kathryn nghe tiếng con gái thở phì phò qua mũi. Những giọt nước mắt nhỏ đong đầy trên mi mắt Mattie, chực trào ra nếu nó chớp mắt. Kathryn nhìn thấy cơ trên mặt con gái co lại rồi giãn ra.
Kathryn một lần nữa nhẹ nhàng kéo tấm trải giường. Mattie đột ngột há miệng ra rồi giật phắt tấm trải ra khỏi người.
“Chịu không nổi,” nó nói khi đã có thể thở bình thường.
***
Mattie đang tắm. Bà Julia mặc áo choàng ngắn kẻ màu đỏ bên ngoài chiếc áo ngủ có từ trước thời Carter và đang đứng bên bếp lò. Bà Julia tin rằng chỉ chán một món quần áo chưa phải là lý do để mua một cái mới. Một quy tắc bất thành văn khác là nếu không mặc một chiếc đầm nào trong vòng một năm thì tốt nhất nên tặng nó cho người khác.
Trông bà có vẻ mệt mỏi, nước da xanh xao. Kathryn bất ngờ khi thấy - hoặc có lẽ lần đầu tiên mới nhận ra - một lớp thịt dày phía trên cột sống Julia khiến đầu và vai bà hơi gù về trước.
“Cậu Robert đấy vẫn còn ở khách sạn à?” bà Julia hỏi, lưng bà u lên như một cái thùng kẻ sọc đỏ mềm mại.
“Không ạ,” Kathryn đáp nhanh, không muốn nghĩ về Robert và điều anh ta định nói hoặc chưa nói. “Anh ta nghỉ ở khách sạn tối qua, nhưng bây giờ đang ở nhà cháu.”
Cô đặt tách cà phê lên chiếc bàn gỗ, mặt bàn trải một tấm khăn nhựa bám chặt, gấp và cố định ở bốn góc bằng đinh bấm. Sau nhiều năm, màu sắc trên những tấm khăn nhựa đã thay đổi - từ đỏ thành xanh dương rồi thành xanh lá cây - nhưng mặt bàn sạch sẽ, dính chặt thì không thay đổi, cũng như cảm giác về những sợi chỉ lượn sóng dưới ngón tay cô.
Julia đặt một đĩa trứng rán và bánh mì nướng xuống trước mặt Kathryn.
“Cháu không ăn nổi.”
“Ăn đi. Cháu cần phải ăn.”
“Bụng cháu...”
“Cháu sẽ chẳng thể giúp gì được cho Mattie nếu không tự chăm sóc cho bản thân mình, Kathryn ạ. Cháu đang đau khổ, bà thấy điều đó, nhưng cháu còn phải làm mẹ của một cô con gái, và đó là công việc của cháu, dù cháu có thích hay không.”
Một sự im lặng kéo dài.
“Gì cơ ạ?” Kathryn hỏi.
Julia ngồi xuống. “Bà xin lỗi,” bà nói. “Tinh thần bà không ổn định lắm.”
“Có chuyện này bà cần biết,” Kathryn nói nhanh.
Julia nhìn Kathryn.
“Có một tin đồn. Rất khó tin. Rất khủng khϊếp.”
“Tin gì?”
“Bà có biết CVR là gì không?”
Julia quay ngoắt đầu về phía cửa. Mattie đang đứng ở đấy, trông như không biết phải làm gì tiếp theo, như nó đã quên phải sống thế nào. Mái tóc xõa trên vai chiếc áo thun rộng màu xanh da trời dài tới thắt lưng. Nó mặc chiếc áo đó với quần jean (cỡ số hai, bó sát) phủ ống qua đôi giày Adidas, gấu quần đã sờn. Hai bàn chân theo tự nhiên hướng vào trong, khiến phần từ thắt lưng trở xuống của nó trông như trẻ con, đối lập hoàn toàn với nửa thân trên ra dáng thiếu nữ. Nó đút ngón tay vào khe túi áo và rụt vai. Hai mắt đỏ ngầu vì khóc. Nó hất đầu để tóc rơi hết sang một bên. Môi trên của nó run run. Nó lo lắng đưa tay búi tóc, rồi lại xõa ra.
“Ủa, có chuyện gì vậy ạ?” Mattie can đảm hỏi, dán mắt xuống sàn.
Kathryn phải quay mặt đi. Cô không biết Mattie thấy những giọt nước mắt đã bắt đầu tuôn trên mặt cô.
“Mattie à,” cô nói khi đã có thể lên tiếng. “Lại đây ngồi với mẹ rồi ăn trứng với bánh mì nướng nào. Hôm qua con chẳng ăn gì cả.”
“Con không đói.”
Mattie kéo một chiếc ghế ra - không hẹn mà gặp, đó là chiếc ghế cách xa Kathryn nhất - rồi rón rén ngồi xuống mép ghế, hai bàn chân tạo thành hình chữ V trên sàn nhà.
“Làm ơn đi mà, Mattie.”
“Mẹ à, con không đói bụng, được chưa? Mẹ thôi đi.”
Julia trông như định nói chuyện với Mattie, nhưng Kathryn ra dấu bằng mắt cho bà và lắc đầu.
“Sao cũng được,” Kathryn cố nói bằng giọng bình thản.
“Thôi thì, bánh mì nướng cũng được,” Mattie nhượng bộ.
Julia dọn cho Mattie một đĩa bánh mì nướng và một tách trà. Mattie xé từng mẩu viền bánh mì nhỏ xíu - những mẩu chỉ to bằng bánh thánh - rồi nhai một cách chậm rãi và uể oải cho đến khi miếng bánh mì không còn viền nữa, lúc đó nó đặt miếng bánh xuống.
“Con có phải đi học không?” Mattie hỏi.
“Đợi đến hết kỳ nghỉ đã,” Kathryn đáp.
Mặt Mattie nhợt nhạt, rầu rĩ, nước da trắng mốc, trông như nó chỉ còn một nửa hơi sức. Giữa hai mắt và ở cạnh mũi lấm tấm mụn trên những mảng da đỏ ửng. Nó ngồi còm lưng trước miếng bánh mì không viền, nghiền ngẫm khối hình vuông lạnh lẽo không mùi vị trên đĩa.
“Chúng ta đi dạo đi,” Kathryn nói.
Mattie nhún vai. Nhún một vai - biểu lộ thái độ phản bác nhiều hơn so với nhún hai vai.
Trên cửa nhà bếp sau lưng Mattie có một cây thông Giáng sinh bằng vải chần được mua từ một hội chợ do nhà thờ tổ chức nhiều năm trước, hằng năm cứ đến đầu tháng mười hai, nó lại được lôi xuống từ chiếc hộp trên gác mái. Bà Julia không thích trang trí nhiều, nhưng bà tuyệt đối thủy chung: Năm trước dùng đến món gì thì năm sau sẽ dùng lại món đấy.
Giáng sinh. Một chủ đề mà Kathryn không muốn nghĩ đến, đang lơ lửng trong đầu cô, như một cơn đau đầu ứ đọng.
Cô đứng dậy.
“Con mặc áo khoác vào đi,” cô nói với Mattie.
***
Hơi lạnh làm đầu óc cô tỉnh táo, khiến cơ thể cô muốn di chuyển nhanh hơn. Từ ngôi nhà đá trở đi, con đường trở thành đường đất uốn lượn lên núi Ely. Đó là một ngọn núi dốc vừa phải, một địa hình nên thơ với rặng thông xanh rì, những vườn táo bỏ hoang, và những cánh đồng việt quất. Vào cuối thập niên 1980, một nhà kinh doanh địa ốc đã tính đến việc xây một cụm căn hộ cao cấp gần đỉnh núi, thậm chí đã tiến hành làm thông thoáng một khoảnh đất và đào móng. Nhưng ông ta rõ là gặp đúng năm xui tháng hạn, phải tuyên bố phá sản sáu tháng sau khi cuộc suy thoái kinh tế bao trùm gần như toàn bộ New Hampshire. Khoảng đất trống giờ đây um tùm bụi rậm, nhưng móng nhà, đã đổ một lớp nền, lại là nơi tuyệt vời để ngắm cảnh đẹp của Ely và Ely Falls về phía Tây, thực ra là ngắm toàn bộ thung lũng.
Mattie không đội mũ. Nó thọc sâu hai tay vào túi chiếc áo chần bông màu đen sáng bóng không kéo dây khóa. Từ lâu Kathryn đã thôi không bảo Mattie kéo khóa áo khoác hay đội mũ. Đôi lần rời khỏi trường sau giờ dạy, cô lại kinh ngạc khi thấy những cô nữ sinh đứng bên vệ đường trong cái lạnh bốn độ C mà chỉ mặc áo thun và khoác áo sơ mi vải không cài nút bên ngoài.
“Mẹ, sắp đến Giáng sinh rồi đấy,” Mattie nói.
“Mẹ biết rồi.”
“Chúng ta sẽ làm gì?”
“Con muốn làm gì?”
“Không làm gì hết, con không biết nữa. Hay là làm gì đấy. Con chả biết.”
“Hay ta cứ đợi vài ngày nữa xem sao.”
“Ôi, mẹ à!”
Mattie dừng lại đột ngột, đè hai cườm tay lên mắt rồi run lên bần bật. Kathryn vòng tay ôm con, nhưng nó thu người lại để tránh mẹ.
“Ôi, Chúa ơi. Mẹ ơi. Tối hôm qua con lấy quà của bố ra...”
Mattie đang khóc tức tưởi. Kathryn nhận thấy con gái còn quá đau đớn, quá nhạy cảm để hứng chịu thêm áp lực lần nữa, giờ đây khoảng cách giữa tỉnh táo và phát điên chỉ cách nhau một sợi tóc.
Kathryn nhắm mắt lại, chờ đợi. Cô từ từ đếm nhẩm trong đầu, như vẫn thường làm mỗi khi cổ chân đá phải nắp máy rửa bát, hoặc kẹt ngón tay khi đóng cửa sổ. Một, hai, ba, bốn. Một, hai, ba, bốn. Khi nghe tiếng khóc đã giảm đi một chút, cô mở mắt ra. Cô dùng khuỷu tay huých con gái về trước một chút, như chú chó chăn cừu lùa đàn cừu hay đàn bò. Mattie thẫn thờ không phản kháng.
Kathryn đưa cho Mattie một miếng khăn giấy Kleenex rồi đợi con bé hỉ mũi.
“Con mua cho bố một đĩa nhạc. Stone Temple Pilots. Bố nói bố muốn nghe đĩa ấy.”
Lá khô và tuyết đóng băng tạo thành một lớp lộn xộn hai bên đường đất. Con đường lồi lõm những vết bánh xe khô cứng.
“Mẹ ơi, chúng ta đừng đón Giáng sinh ở nhà, được không? Chắc con không chịu đựng nổi đâu.”
“Chúng ta sẽ đón Giáng sinh ở nhà bà Julia.”
“Chúng ta có tổ chức tang lễ không?”
Kathryn cố gắng đuổi kịp Mattie, con bé đang đi nhanh, những câu hỏi bật ra như từng cụm khói từ miệng nó. Kathryn nghĩ có lẽ Mattie đã tự hỏi mình những câu hỏi này suốt đêm và cuối cùng đã đủ can đảm để cất thành tiếng.
Nhưng Kathryn không biết phải trả lời câu hỏi cuối thế nào. Nếu không tìm thấy thi thể, liệu có thể làm đám tang được không, hay như thế chỉ gọi là lễ tưởng niệm thôi? Và nếu là lễ tưởng niệm, thì tốt nhất là tổ chức ngay, hay nên đợi một thời gian? Và chuyện gì sẽ xảy ra nếu tổ chức lễ tưởng niệm xong rồi lại tìm thấy xác?
“Mẹ không biết,” Kathryn thành thật nói. “Mẹ cần nói chuyện với...”
Cô suýt nói Robert, nhưng kịp chặn mình lại.
“Bà Julia,” Kathryn nói.
Dù, thật ngạc nhiên, người cô muốn hỏi lại chính là Robert.
“Con có phải đi không?” Mattie hỏi.
Kathryn nghĩ ngợi một phút.
“Có, con nên đi. Chuyện này rất khó, mẹ biết; thật kinh khủng, Mattie à, nhưng người ta nói thà con đi dự tang lễ của người mà con yêu thương hơn là không. Nó giống như một sự chấm dứt. Con đủ lớn để làm việc này rồi. Nếu con còn nhỏ, mẹ sẽ nói là không.”
“Con không muốn chấm dứt cái gì cả, mẹ à. Con không thể làm thế. Con phải giữ cho nó còn mãi.”
Kathryn biết chính xác con gái cô muốn nói gì. Nhưng Kathryn cũng cảm thấy cô nên làm với Mattie điều mà Julia đã làm với cô. Khi nào thì ta mới thôi làm một người mẹ lý trí, Kathryn tự hỏi, và thừa nhận mình cũng hoang mang như đứa con của mình?
“Bố sẽ không quay lại nữa, Mattie à.”
Mattie rút tay ra khỏi túi áo, khoanh tay trước ngực, nắm chặt hai bàn tay lại.
“Sao mẹ biết? Sao mẹ chắc chắn như vậy?”
“Chú Robert Hart nói không có ai sống sót. Không ai sống nổi sau một vụ nổ như vậy.”
“Chú ấy thì biết cái gì chứ?”
Đó không phải là một câu hỏi.
Họ đi bộ một quãng. Mattie bắt đầu vung mạnh hai tay, mỗi lúc một nhanh. Kathryn cố gắng đuổi kịp nó và rồi nhận ra cô không nên làm thế. Vấn đề nằm ở chỗ đó.
Kathryn đứng nhìn Mattie đi càng lúc càng nhanh cho đến khi nó vụt chạy và rẽ vào một hướng khác để không còn bị nhìn thấy nữa.
Kathryn không biết làm sao họ có thể sống sót qua lễ Giáng sinh chỉ còn cách bảy ngày nữa. Một tai nạn đã xảy ra, khiến vũ trụ của họ đảo lộn, giờ đây họ đang xoay trong một quỹ đạo mới - một quỹ đạo liền kề, nhưng khác biệt, với những quỹ đạo xung quanh.
Kathryn tìm thấy Mattie đang ngồi trên bức tường xi măng của khu nhà xây dở, thở hồng hộc, như sau mỗi trận khúc côn cầu trên cỏ. Nó ngước lên nhìn mẹ.
“Con xin lỗi mẹ.”
Kathryn phóng tầm mắt về khung cảnh trước mắt. Ít ra, mọi thứ ở đó vẫn không có gì thay đổi. Sau lưng họ, ở phía Đông, là Đại Tây Dương. Nếu họ đi tiếp lêи đỉиɦ đồi, họ sẽ nhìn thấy biển. Gần như ngửi thấy mùi vị của biển.
“Tạm thời bây giờ không ai nói đến từ xin lỗi nữa, được chứ?” Kathryn hỏi.
“Chúng ta sẽ ổn thôi, phải không mẹ?”
Kathryn ngồi xuống cạnh con, quàng tay ôm nó. Mattie tựa đầu vào vai mẹ.
“Cuối cùng con cũng đã bình tâm lại,” Kathryn nói.
Mattie lấy chân xúc tuyết. “Con biết chuyện này cũng rất khó khăn với mẹ. Mẹ thực sự rất yêu bố mà, phải không?”
“Đúng vậy, con à.”
“Có lần con xem một bộ phim tài liệu, hình như nói về chim cánh cụt? Mẹ biết chim cánh cụt sống thế nào không?”
“Không nhiều lắm.”
Mattie ngồi dậy. Khuôn mặt nó đột nhiên trở nên sống động và đầy cảm xúc. Kathryn rút tay khỏi vai con.
“Như thế này, con trống sẽ chọn ra một con mái từ một bầy chim cánh cụt, đôi khi có đến hàng trăm con ấy; con không biết làm sao nó phân biệt được, trông con nào cũng giống nhau. Rồi sau khi chọn xong, nó sẽ đi tìm năm viên đá nhẵn và đặt từng viên một cạnh chân con mái. Nếu con mái thích, nó sẽ nhận những viên đá đó, và chúng sẽ thành bạn đời của nhau.”
“Dễ thương quá.”
“Sau đó, sau khi xem xong bộ phim đó, lớp chúng con đi tham quan viện hải dương học ở Boston. Và lũ chim cánh cụt - ôi mẹ ơi, tuyệt không thể tả - bọn chúng đang, sao nhỉ, âu yếm nhau? Con trống che lấy con mái, như một tấm chăn đắp lên người con mái, xong nó rung lên một tí rồi nhảy xuống đứng cạnh con mái, trông hai đứa mệt bơ phờ, nhưng có vẻ như hạnh phúc lắm? Chúng hôn hít lên cổ và mặt nhau, như đang yêu đương thắm thiết lắm vậy. Sau đó đứa bạn đứng cạnh con, tên là Dennis Rollins, đúng là một thằng dở hơi, mẹ không biết nó đâu, cứ nói mấy câu đùa nhảm nhí. Con chỉ bực mỗi chuyện đấy thôi.”
Kathryn vuốt tóc con. Cơn choáng váng này rất giống với nước mắt.
“Mẹ biết không, con làm chuyện ấy rồi.”
Tay của Kathryn chựng lại trong lúc đang lướt theo đường cong duyên dáng trên đầu của Mattie.
“Chúng ta có đang nói về chuyện mà mẹ nghĩ là chúng ta đang nói tới không?” Kathryn khẽ hỏi.
“Mẹ có giận không?”
“Giận ư?”
Kathryn lắc đầu, choáng váng. Cô từ từ ngậm miệng lại.
Cô không biết mình ngạc nhiên vì điều nào hơn - lời thú nhận của Mattie hay phản ứng nhẹ nhàng của cô.
“Khi nào?”
“Năm ngoái.”
“Năm ngoái?”
Kathryn sửng sốt. Chuyện này đã xảy ra một năm trước, mà cô chẳng biết gì cả sao?
“Mẹ nhớ Tommy không?”
Kathryn chớp mắt. Tommy Arsenault, như cô nhớ, là một cậu bé tóc nâu đáng yêu có vẻ hay buồn.
“Lúc đấy con mới mười bốn tuổi,” Kathryn ngờ vực.
“Chưa tới mười bốn tuổi,” Mattie nói, như thể quan hệ tìиɧ ɖu͙© ở tuổi trẻ như vậy, gần mười ba, là một vinh dự to lớn.
“Nhưng tại sao?” Kathryn hỏi, dù biết câu hỏi ấy thật ngớ ngẩn.
“Mẹ bực mình lắm, con biết mà.”
“Không. Không. Mẹ đâu có bực mình. Mẹ chỉ... mẹ chỉ ngạc nhiên thôi.”
“Con chỉ muốn thử cho biết,” Mattie đáp.
Kathryn cảm thấy mông lung. Khung cảnh khiến cô khó chịu. Cô nhắm mắt lại. Mattie có kinh rất muộn, chỉ mới tháng mười hai năm ngoái, và theo Kathryn nhớ, từ đó đến nay nó chỉ mới có kinh ba lần. Có lẽ nó còn chưa dậy thì khi chuyện ấy xảy ra.
“Một lần thôi à?” Kathryn hỏi, không nén nổi một tia hi vọng.
Mattie lưỡng lự, như chuyện nhiều hay ít là đề tài quá nhạy cảm không nên chia sẻ với mẹ của mình.
“Không, vài lần.”
Kathryn im lặng.
“Không sao đâu, mẹ à. Con chẳng lo nghĩ gì về chuyện đó cả. Con không yêu cậu ấy hay gì đâu. Chỉ là con muốn tìm hiểu xem chuyện ấy như thế nào, nên con mới làm.”
“Có đau không?”
“Lúc đầu thì có. Nhưng sau đó thì con thấy thích.”
“Và con có cẩn thận không?”
“Tất nhiên rồi, mẹ à. Mẹ nghĩ con sẽ làm liều sao?”
Cứ như tìиɧ ɖu͙© chưa phải là chuyện đủ liều.
“Mẹ không biết phải nghĩ gì nữa.”
Mattie vấn tóc thành búi sau gáy.
“Còn Jason thì sao?” Kathryn hỏi, nhắc đến bạn trai hiện nay của con bé. Trong tất cả những người bạn của Mattie thì Jason, một cậu bé cao ráo, tóc vàng, nghiện bóng rổ, là đứa đủ can đảm gọi điện đến vào hôm qua để hỏi thăm Mattie.
“Không, bọn con không làm chuyện ấy. Bạn ấy có vẻ sùng đạo lắm. Bạn ấy nói bạn ấy không thể làm chuyện ấy. Mà con thấy vậy cũng được. Con không gây áp lực gì lên bạn ấy cả.”
“Tốt,” Kathryn cố thốt lên.
Trong suốt thời thiếu nữ của Mattie, Kathryn đã tưởng tượng đến khoảnh khắc này, đã hy vọng, như những bà mẹ khác, rằng con gái mình sẽ nếm trải tìиɧ ɖu͙© cùng lúc với tình yêu. Cô đã soạn ra đoạn đối thoại nào trong đầu cho sự kiện này? Chắc chắn không phải là đoạn khi nãy.
Mattie ôm cô.
“Tội nghiệp mẹ quá,” nó nói.
Giọng nó có vẻ trêu chọc nhưng đầy tình cảm.
“Con có biết là vào những năm 1700 ở Na Uy, cô gái nào bị phát hiện quan hệ tìиɧ ɖu͙© trước hôn nhân sẽ bị xử trảm, đầu cô ta bị cắm lên một cây giáo, còn thân thì chôn ở nơi chặt đầu không?”
Mattie nhìn mẹ với nét mặt mà Kathryn hình dung giống như khi nó nhìn thấy Kathryn bị đột quỵ.
“Mẹ à?”
“Chỉ là một chi tiết lịch sử thôi,” Kathryn nói. “Mẹ rất mừng vì con kể với mẹ.”
“Trước đây con đã muốn kể với mẹ, nhưng con nghĩ...”
Mattie cắn chặt môi.
“Con nghĩ mẹ sẽ nổi giận, và con biết chắc là mẹ sẽ nói với bố.”
Nhắc đến bố, giọng nó run run.
“Mẹ có chắc là mẹ không giận không?” Mattie hỏi lại lần nữa.
“Giận à? Không. Giận chẳng liên quan gì đến chuyện này. Chỉ là... đó là một phần quan trọng của cuộc đời, Mattie ạ. Nó thật sự có một ý nghĩa. Nó rất đặc biệt. Mẹ tin như thế.”
Kathryn có thể nhận ra sự tẻ nhạt trong lời nói của mình. Tìиɧ ɖu͙© có đặc biệt không? Nó có ý nghĩa gì không? Hay đó chỉ là một hành động tự nhiên, diễn ra hàng tỉ lần một ngày trên khắp thế giới theo vô số cách khác nhau, trong đó một vài cách vô cùng quái đản? Cô không biết mình nghĩ gì về đề tài này, và cô tự hỏi những ông bố bà mẹ có thường xuyên bị mắc vào cái bẫy phải tuyên bố những quan điểm mà họ không thực sự tin là chân lý hay không.
“Giờ thì con biết rồi,” Mattie nói. “Con chỉ cần bỏ nó qua một bên thôi.”
Mattie nắm tay mẹ. Ngón tay nó lạnh cóng.
“Con cứ nghĩ đến mấy con chim cánh cụt ấy,” Kathryn yếu ớt nói.
Mattie bật cười.
“Mẹ thật kỳ lạ.”
“Chúng ta đều biết vậy mà.”
Họ đứng dậy.
“Mattie, nghe này con.”
Kathryn quay sang con gái. Cô muốn nói với Mattie về những tin đồn vào lúc này, về những câu chuyện khủng khϊếp mà Mattie chắc chắn sẽ nghe thấy. Nhưng khi Kathryn nâng mặt con gái lên gần mặt mình và nhìn thấy nỗi tổn thương vương vấn ở đó, cô không thể mở lời. Robert đã nói rằng Kathryn phải tuyệt đối phủ nhận mọi tin đồn. Vậy thì tại sao lại làm Mattie bận lòng với những thông tin ấy? cô lập luận. Ngay cả như thế, cô vẫn cảm thấy lòng cắn rứt vì tội lỗi của người mẹ, cảm giác cắn rứt hệt như mỗi khi cô lùi bước trước một nhiệm vụ khó khăn.
“Mẹ yêu con, Mattie à,” Kathryn nói. “Con không biết mẹ yêu con nhiều thế nào đâu.”
“Mà, mẹ ơi, điều tồi tệ nhất...”
“Cái gì?” Kathryn hỏi, lùi lại trước con gái và chuẩn bị đối phó với một tiết lộ khác.
“Sáng hôm đó, trước khi bố đi làm ấy? Bố vào phòng con rồi hỏi con có muốn đi xem đội Celtics thi đấu với bố khi bố về vào thứ sáu không. Lúc đó tâm trạng con không được tốt, con muốn xem Jason định làm gì vào thứ sáu trước, nên con nói con không đi được đợi đến đó con trả lời được không? Và con nghĩ là... Ôi, con biết mà. Con đã làm bố buồn, mẹ ơi. Con có thể thấy điều đó trên mặt bố.”
Miệng của Mattie bắt đầu méo mó. Trông nó trẻ con hơn rất nhiều khi khóc, Kathryn thầm nghĩ. Vẫn còn là một đứa trẻ.
Làm sao Kathryn có thể giải thích với nó rằng những sự khước từ như thế thường xuyên xảy ra? Bố mẹ bị tổn thương và nuốt nỗi buồn vào lòng rồi nhìn con cái rời bỏ mình, lúc đầu chỉ từ từ từng chút một, sau đó thì nhanh dần với tốc độ chóng mặt.
“Bố hiểu mà,” Kathryn nói dối. “Bố hiểu mà. Thật đấy. Bố có nói với mẹ trước khi đi.”
“Thật không?”
“Bố nói đùa là bây giờ bố hết còn là ưu tiên số một của con rồi, nhưng thật đấy, bố không giận gì cả. Khi bố nói đùa về chuyện gì thì có nghĩa là bố không sao.”
“Thật à?”
“Ừ, thật mà.”
Kathryn gật đầu dứt khoát để thuyết phục con gái.
Mattie khịt mũi. Lau môi trên bằng mu bàn tay.
“Mẹ còn khăn giấy Kleenex không?”
Kathryn đưa khăn giấy cho nó.
“Con khóc nhiều quá rồi. Con nghĩ đầu con sắp nổ tung.”
“Mẹ biết cảm giác đó,” Kathryn nói.
***
Julia đang ngồi tại bàn khi họ về đến nhà. Bà đã pha chocolate nóng cho hai mẹ con, và Mattie có vẻ hài lòng với việc đó. Trong lúc Kathryn từ tốn nhấm nháp món chocolate nóng, cô nhận ra hai bọng mắt của bà Julia đỏ hoe, và cô chợt hoảng sợ trước ý nghĩ bà nội của cô khóc một mình trong nhà bếp.
“Robert có gọi điện,” Julia nói.
Kathryn ngước lên, và Julia gật đầu.
“Cháu sẽ gọi cho anh ta trong phòng của bà,” Kathryn nói.
***
Phòng của Julia, lạ thay, là căn phòng nhỏ nhất trong ngôi nhà này. Bà luôn bảo rằng mình chẳng cần nhiều diện tích. Chỉ có tấm thân già của bà trên giường, và bà luôn sống với triết lý ít hơn có nghĩa là nhiều hơn. Nhưng căn phòng không vì thế mà mất nét nữ tính, vẻ dịu dàng mà Kathryn thường liên tưởng đến những người phụ nữ thuộc thế hệ đó. Rèm cửa dài, xếp li, hoa văn sặc sỡ, một chiếc ghế bọc vải lụa sọc màu anh đào, ga trải giường màu hồng viền cạnh, và một món đồ mà bây giờ Kathryn ít thấy - một chiếc bàn trang điểm phủ khăn điệu đà. Kathryn thường tưởng tượng bà Julia ngồi ở chiếc bàn đấy khi còn trẻ, chải lại mái tóc đen dài, có thể vừa chải tóc vừa nghĩ đến chồng và buổi tối sắp đến.
Điện thoại để trên bàn trang điểm. Một giọng nói mà Kathryn không nhận ra trả lời sau tiếng chuông đầu tiên.
“Cho tôi nói chuyện với ông Robert Hart?”
“Ai gọi đấy?”
“Kathryn Lyons.”
“Đợi một chút nhé,” giọng bên kia đáp.
Cô nghe thấy những giọng nói khác ở phía sau, giọng đàn ông. Cô hình dung nhà bếp của cô đang có rất nhiều đàn ông mặc vest.
“Kathryn.”
“Có chuyện gì?”
“Cô có sao không?”
“Tôi không sao.”
“Tôi đã báo với bà của cô.”
“Tôi cũng nghĩ là anh sẽ làm vậy.”
“Tôi sẽ đến đón cô.”
“Thật lố bịch. Tôi có xe mà.”
“Cứ để nó ở đó.”
“Tại sao? Có chuyện gì vậy?”
“Cho tôi biết đường đi.”
“Robert?”
“Ở đây có vài người muốn hỏi cô một số chuyện. Tôi nghĩ cô và tôi nên nói chuyện với nhau trước. Vả lại, cô cũng không muốn họ đến nhà bà Julia. Nhất là khi con gái cô đang ở đó.”
“Robert, anh đang làm tôi sợ đấy.”
“Không sao đâu. Tôi sẽ đến đấy ngay.”
Kathryn chỉ đường cho anh ta.
“Robert, câu hỏi gì vậy?”
Đầu dây bên kia im lặng một chút. Cô có cảm giác như sự im lặng đó là tuyệt đối, như mọi giọng nói trong gian bếp ở xa của cô đều đột nhiên im bặt.
“Năm phút nữa tôi đến,” anh ta đáp.
***
Mattie đang thổi tách chocolate nóng khi Kathryn quay lại nhà bếp.
“Mẹ phải đi. Có vài người ở nhà muốn nói chuyện với mẹ. Người của hãng hàng không.”
“Vâng ạ,” Mattie đáp.
“Mẹ sẽ gọi cho con,” Kathryn nói, cúi xuống hôn con gái.
***
Kathryn mặc áo lông vịt đứng ở cuối đường mòn vào nhà. Cô đút tay vào túi áo, dựng cổ áo lên. Ngày hôm ấy trời đứng gió và lạnh như băng. Bình thường, đây là kiểu thời tiết cô thích nhất.
Cô trông thấy chiếc xe từ xa, một cái bóng màu xám di chuyển nhanh trên đường từ thị trấn. Robert phanh xe gấp, chồm người qua mở cửa xe.
Cô ngồi xuống tựa lưng vào tay nắm cửa, quay về hướng anh ta. Trong ánh nắng chói chang, cô có thể nhận ra những chi tiết nhỏ nhất trên mặt Robert: đường viền quai hàm xanh mờ, nơi đó hẳn có một bộ râu quai nón nếu anh không cạo râu, làn da trắng nhợt dưới tóc mai, nơi tóc bị cắt ngắn hơn vết rám nắng cũ, phần da dưới cằm. Anh đỗ xe lại rồi quay sang cô, đặt cánh tay, như một cây cầu, giữa hai chiếc ghế trước.
“Chuyện gì?” cô hỏi.
“Có hai điều tra viên từ Ban An toàn muốn nói chuyện với cô.”
“Trong nhà tôi ư?”
“Vâng.”
“Tôi có phải trả lời câu hỏi của họ không?”
Anh nhìn đi nơi khác, về phía ngôi nhà đá, rồi nhìn trở lại. Anh gãi môi trên bằng ngón tay cái.
“Có,” anh thận trọng đáp. “Nếu cô cảm thấy khỏe. Nhưng tôi nghĩ cô có thể nói là mình không khỏe lúc nào cũng được.”
Cô khẽ gật đầu.
“Tôi không thể giúp cô tránh được cuộc điều tra về tai nạn này. Hoặc tránh được các thủ tục pháp lý.”
“Thủ tục pháp lý gì?”
“Trong trường hợp...”
“Tôi tưởng đây chỉ là tin đồn nhảm thôi chứ.”
“Đúng vậy. Bây giờ là thế.”
“Tại sao? Anh biết chuyện gì rồi? Trong đoạn băng có gì?”
Robert gõ những ngón tay của bàn tay còn lại lên phần dưới vô lăng. Một nhịp điệu đều đều, suy nghĩ.
“Một kỹ thuật viên người Anh làm việc cho cơ quan của Anh tương đương Ban An toàn của chúng tôi có mặt trong phòng khi đoạn băng được mở lần đầu đã gọi điện cho một người phụ nữ mà anh ta quen biết đang làm việc cho chi nhánh đài BBC ở Birmingham. Có vẻ như anh ta đã ra tuyên bố về đoạn băng. Tôi không biết rõ động cơ của anh ta, hoặc cô ta, khi tiết lộ chuyện này, nhưng chúng ta chỉ có thể phỏng đoán. CNN đang đưa lại tin của BBC. Vì vậy đây là tin từ nguồn thứ tư rồi.”
“Nhưng có thể nó là thật.”
“Có thể nó là thật.”
Kathryn đổi tư thế ngồi, nhấc đầu gối lên để eo không bị vặn quá nhiều. Cô khoanh tay trước ngực.
Robert lấy ra một tờ giấy trắng bóng từ túi áo. Anh ta đưa bản fax cho cô.
“Đây chính xác là bản tin được đọc trên CNN,” anh ta nói.
Bản fax rất khó đọc. Những chữ viết hoa, trong đó có vài chữ có đuôi, bơi trước mặt cô. Cô cố gắng tập trung vào một câu, để bắt đầu từ đầu.
CNN vừa nhận được tin rằng một nguồn tin thân cận trong cuộc điều tra chuyến bay Vision 384 cho biết CVR - máy ghi âm giọng nói buồng lái - có thể, chúng tôi nhấn mạnh là có thể, tiết lộ một cuộc cãi cọ giữa Cơ trưởng Jack Lyons, một chuyên gia bay mười một năm kinh nghiệm tại Vision, với Kỹ sư chuyến bay người Anh Trevor Sullivan ngay trước khi chiếc máy bay T-900 phát nổ. Theo các tuyên bố chưa được kiểm chứng, một tai nghe bị hỏng đã khiến Sullivan kiểm tra túi bay của Cơ trưởng Jack Lyons sau khi máy bay cất cánh được năm mươi tám phút. Vật mà Sullivan lấy ra từ túi bay có thể, lần nữa chúng tôi xin nhấn mạnh là có thể, là nguyên nhân gây ra vụ nổ xé toạc chiếc T-900, làm một trăm lẻ bốn hành khách và phi hành đoàn thiệt mạng. Ngoài ra, nguồn tin cho hay đoạn rã băng vài giây cuối cùng của chuyến bay Vision 384 có thể cho thấy đã xảy ra xô xát giữa Cơ trưởng Lyons và Kỹ sư chuyến bay Sullivan, và Sullivan đã thốt lên vài tiếng chửi thề.
Daniel Gorzyk, một người phát ngôn của Ban An toàn, sáng nay quyết liệt bác bỏ những cáo buộc này, gọi đó là thông tin sai lạc ác ý và vô trách nhiệm. Báo cáo này, chúng tôi xin nhắc lại, đến từ một nguồn không nêu tên khẳng định mình có mặt khi đoạn băng từ CVR được mở. Thiết bị CVR này, như chúng tôi đã thông báo khi nãy, được tìm thấy vào tối hôm qua ở vùng biển ngoài khơi Malin Head, thuộc nước Cộng hòa Ireland...
Kathryn nhắm mắt lại, ngả người ra lưng ghế.
“Như vậy nghĩa là sao?” cô hỏi.
Robert liếc nhìn lên mui xe.
“Thứ nhất, chúng ta còn không biết nó có thật hay không. Ban An toàn đã ra tuyên bố chỉ trích mạnh mẽ. Người làm rò rỉ thông tin này hẳn đã bị sa thải. Họ không nêu tên anh ta, và anh ta cũng không lộ diện. Thứ hai, ngay cả khi nó là thật, thì nó cũng không chứng minh được điều gì. Hay có ý nghĩa gì. Không hẳn.”
“Nhưng nó có,” Kathryn nói. “Đã có chuyện gì đó xảy ra.”
“Đã có chuyện gì đó xảy ra,” Robert nói.
“Ôi, Chúa ơi.”