Chương 10: Địa Phong hai mộ

Bình minh trên chợ quỷ, những hoan lạc tưng bừng của cuộc sống về đêm vừa mới kết thúc cách đây không lâu.

Bởi vì nơi này ở ven sông, gió đêm đều là từ sông thổi vào, ngay cả vạt nắng sớm cũng thấm đẫm hơi nước. Nơi này nghiễm nhiên không có phu canh nào đi tuần đêm, trên đường có chăng chỉ lác đác mấy bóng đạo sĩ với gương mặt ủ rũ. Bọn họ trà trộn vào đây để mua bán nhỏ lẻ, hỏi thăm tin tức, nhưng cũng không dám ngủ lại nơi này, để thừa dịp sáng sớm còn sang lại được bên kia bờ sông.

Cách đó không xa, một thiếu niên mặc áo choàng ngắn bằng vải gai, miệng ngậm lá cỏ đang đi tới, vừa đi vừa tiện chân đá mấy hòn sỏi nhỏ ven đường. Nó thoáng nhìn người bán hàng rong đang chống tay lên cằm mà ngủ ở bên hè, liền thò tay đập lệch chiếc nón của hắn, cười nói, "Hôm nay còn lâu mới bán được hàng!"

Người bán hàng rong chợt bừng tỉnh, sợ tới mức suýt ngã, nhìn kỹ lại là ai bèn cất giọng mắng, "Trẻ con ăn nói vớ vẩn, muốn ăn đòn không?"

Thiếu niên kia đã đi được vài bước, nghe thấy bị mắng lại vui vẻ như được kẹo, quay lại le lưỡi, "Không phải nói vớ vẩn, là bạch thoại." [1] Sau đó nó cũng kệ người bán hàng kia đang hùng hùng hổ hổ, quẹo luôn vào một cái ngõ hẹp.

Ngõ kia vốn là đường cụt, ở cuối chỉ có một bức tường đá rêu phong.

Nó hơi chun mũi, đang định đưa tay lên sờ, tường đá kia lại lăn tăn rút xuống như một rèm nước. Rèm nước đã tan đi hết, thiếu niên thấy người bên trong, mà người trong rèm cũng nhìn thấy nó, không khỏi lộ ra vẻ kinh ngạc. "Sớm như vậy mà ngươi..."

Thiếu niên lập tức cướp lời, "Sớm như vậy mà đã mở cửa, hôm nay ngươi không làm ăn được gì đâu!"

Người con gái ăn mặc như dược sư đứng yên lặng trước cửa, nói, "Hôm nay ta cũng không có việc gì." Nàng lại hóa ra tường đá che lấp đi cánh cửa đỏ, đoạn xoay người bước vào trong viện. "Nói đi, ngươi đến làm gì, là người kia muốn sửa quạt à?"

Thiếu niên tức giận bước theo vào, cất lời than thở, "Sửa cái gì mà sửa, ta chỉ muốn đến thăm Phiến Tử ca ca thôi." [2]

Nữ dược sư quay về phòng lấy thuốc, qua cánh cửa sổ có thể thấy thiếu niên kia đến bên hồ nước ngồi xuống, gỡ xuống bình rượu đeo ở bên hông, khẽ tưới lên tấm bia mộ ở góc vườn—đó là ngôi mộ chôn cất quần áo và di vật, bên trong còn táng một cây quạt mà nàng đã từng tu sửa. Vật đó ban đầu là Hoa Thành mang tới, sửa xong hắn liền cầm đi, cuối cùng cũng không gặp được chính chủ, mà khi thấy được chính chủ rồi, người đó lại nói không cần phải sửa.

"Không còn ai dùng được nữa." Ngày đó mưa đổ tầm tã, một người áo đen mặt mày lạnh lẽo đứng ngoài cửa son, hai tay nắm chặt lấy cổ tay áo, nhìn giống như một thanh kiếm trần dưới mưa, cũng không biết đã vì chuyện gì mà rời vỏ. Đó là lần đầu tiên nàng nhìn thấy Hắc Thủy Trầm Chu, một trong tứ đại Quỷ vương.

Về sau Hoa Thành mới kể, hắn ta tới vườn thuốc của nàng chôn quạt vì hắn đã nói, vườn thuốc là nơi hội tụ nhiều thanh khí nhất trong chợ quỷ. Sau này Hoa Thành còn nói thêm, "Nên để ở chỗ ngươi, nếu đến lúc đó lại muốn sửa thì cũng đỡ." Chỉ e rằng lời này mới là thật. Hai người này, đôi lúc thoạt nhìn quan hệ rất xấu, nhưng một khi nhìn lại thì quả thực không xoàng.

Nếu đã muốn chôn, vậy cứ chôn đi. Áo quần và di vật táng ở phần mộ kia hay đặt trên cửa sổ nàng, chỉ cần không ai tới lấy, thì đối với nàng cũng không có gì khác biệt.

Dược sư thu lại dòng suy nghĩ tản mác của mình, cất giọng hỏi, "Sao tự dưng lại muốn tới?"

"Ta rỗi việc, không được tới à?" Thiếu niên kia đưa lưng về phía nàng, ngồi xếp bằng dưới đất, im lặng một chốc như giận dỗi, sau lại hàm hồ nói, "...Chỗ này của ngươi yên tĩnh quá trời. Có người nói Phiến Tử ca ca thích vui vẻ."

"Ai nói vậy? Hắc Thủy à?"

"Hắn á?" Thiếu niên đảo mắt một vòng, ai dám nhắc tới mộ quạt này trước mặt hắn? Bao nhiêu lần nó tới đây đều phải lén lén lút lút như kẻ trộm, nếu để cho kẻ kia biết, nhất định ánh mắt sẽ như đao, nói cái gì mà "Chôn ở chỗ đó chỉ có cái quạt thôi!" Sau đó hắn sẽ lầm lì cả ngày như người chết—cũng không đúng, hắn vốn đã là người chết. Thiếu niên mở bình rượu tự mình uống một ngụm, nói, "Là đại bá công nói cho ta." Thực ra nó cũng không biết Tạ Liên là ai, chỉ thuận miệng gọi thế như chúng bạn trong chợ quỷ.

Dược sư bắt đầu cầm chày giã thuốc, trong bụng nghĩ thầm, hóa ra là vị quý nhân kia lại ghé chơi.

Cái đuôi nhỏ suốt ngày bám theo Hắc Thủy này cũng là một kẻ kỳ quái. Già nửa số người trong chợ quỷ đều biết nhóc con này quấn lấy Hắc Thủy là vì có thù oán với hắn, cả ngày chỉ biết luôn miệng gào về sau có bản lĩnh nhất định sẽ lấy đầu hắn, cũng không sợ hắn quay lại sẽ có thể vặt đầu nó bất cứ lúc nào. Nhưng bản lĩnh này không phải nói có là có được. Hoa Thành ít nhiều cũng có chút sớm nắng chiều mưa, tay lại rất cứng, nó không dám trêu vào, nhưng vị quý nhân kia của Hoa Thành tính tình ôn hòa, mỗi lần đến chợ quỷ chơi, nó sẽ lại bám lấy để hỏi nọ kia, mà nhất là hỏi tên thật của Hắc Thủy.

"Thế bây giờ đã hỏi được chưa?"

"Chưa được!" Thiếu niên tức giận quăng cái bình rỗng xuống hồ.

Nói cũng lạ, nó luôn có cảm giác như mình đã nghe thấy tên thật của Hắc Thủy lúc trước. Nhưng trí nhớ của nó dường như thiếu mất một mảnh, cố gắng thế nào cũng không nhớ nổi. Mỗi khi nó vò đầu bứt tai gắng gượng suy nghĩ, trong đầu sẽ hiện về hình ảnh một ngọn đèn dầu lay động chốn phòng the, sau đó sẽ không tự chủ được mà đỏ mặt, mà cứ đến đây sẽ không dám nghĩ nữa.

Dược sư không biết thiếu niên đang nghĩ gì, nhìn tay nó đang vô tư vò nát dây leo đỏ rũ xuống từ tán hòe bên ao, liền thấy đau đầu mà nói, "Ngươi mà còn không đi, hắn thể nào cũng biết ngươi lại đến."

Thiếu niên kia cuộn dây leo đã đứt trong tay thành một nắm nhỏ, ném về phía xa. "Không đâu, hắn lại đến cái miếu kia rồi!" Huyền Quỷ không mấy khi đến vườn thuốc, lại rất hay đến miếu, sau ngôi miếu ấy cũng có một mộ phần chôn quần áo và di vật, điều này nó cũng biết. Nó chỉ cảm thấy người này bất công, có một chén nước sao lại không chia đều?

Xuôi xuống hạ du chợ quỷ chính là tòa miếu nọ. Bởi vì nó tồn tại đã lâu, nên bất kể là quỷ bên mạn sông này hay người bên mạn sông kia đều biết đến nó. Hai năm trước nơi này còn là một ngôi miếu đổ nát, khiến mọi người phải nghĩ công dụng duy nhất của nó chỉ là chỗ che nắng che mưa cho những người sống đời lưu lạc nơi đất khách quê người, nhưng hiện nay lại được trùng kiến thành một tòa thần miếu chân chính của Địa Sư. Khung nhà xiêu vẹo trong gian chính điện đã được dựng lại, trên mái lợp toàn bộ ngói mới, ngay cả từng cái mộng gỗ để đóng cột cũng đều thay mới hoàn toàn.

Sông nơi đây hay gặp nạn hồng thủy, trăm năm qua có tiếng khó trị, cầu kiều khó xây.

Nhưng kể từ năm kia trùng tu lại tượng thần của Địa Sư, con sông này dần dần bình ổn trở lại, tiến độ thi công cầu kiều tính theo ngày, nên nhang đèn trong miếu cũng dần trở nên thịnh vượng. Hơn nữa, cũng không biết vì sao, miếu Địa Sư ở những nơi khác đều ngày một mất linh, chỉ còn tòa miếu này trở nên nổi tiếng, nên tín đồ tứ phương đều ùn ùn kéo đến, thiếu điều đạp đổ cánh cửa trong gian chính điện.

Miếu lớn dù sao cũng cần có người quản, nên chàng A Nhạn cụt chân đã nặn tượng thần liền đứng ra để coi miếu.

"A Nhạn." Cụ ông chưởng sự trong thôn cất tiếng gọi, sắc mặt hồng hào. "Ngày mai công tác thủy lợi xong rồi, mọi người cũng sắp về đến nơi. Con tìm ai thay con trông miếu đi, cùng chúng ta đi đón người nhé."

Người thanh niên cụt chân lại không để lộ nét mặt vui mừng, chỉ cúi đầu sửa sang lại hương án, thản nhiên chấp thuận. Gã nghĩ thầm, anh con trai nhà họ Triệu cuối cùng cũng đã về, đó là bạn nối khố đã cùng gã cực khổ mà lớn lên, chỉ tiếc rằng Triệu bà bà hai năm nay đã quên quá nhiều chuyện, e là gặp mặt cũng khó mà nhận ra cháu mình.

Nghĩ đến đây, một vò rượu rỗng không biết từ nơi nào lăn đến, đập vào cạnh chân gã. Gã mặt không đổi sắc nhặt lấy vò rượu ấy, đem đặt ở sau tấm rèm vải che ban thờ.

Trong miếu thường xuyên xảy ra chuyện cổ quái, gã nhìn mãi cũng thành quen. Ví dụ như ngôi mộ chôn y phục và di vật sau vườn, hay như tiền còn thiếu để tu sửa pho tượng, cứ sau một đêm là sẽ đột nhiên xuất hiện. Gã không biết trong mộ kia chôn những gì, cũng không biết tại sao phải chôn chỗ này, nhưng cứ mỗi khi trong miếu vắng người, hắn đều sẽ ra quét tước dọn dẹp. Gã là người biết trên đầu có thần linh, biết rằng có những việc gã không thể quản, cũng không cần phải tò mò.

Dưới điện là người đến cúng bái ra vào nườm nượp, trên xà ngang treo cao lại có hai người đang ngồi đối ẩm.

Người mặc áo đỏ nửa nằm nửa ngồi, một bên mắt che lại bằng vải đen, cũng không ngăn được ánh mắt cuồng tình dã khí, tay cầm một vò rượu La Phù Xuân. Người áo đen ngồi bên cạnh, mặt mày lạnh nhạt như kết sương, trên tay là một chén trà nhỏ.

"Tên nhóc này cũng hiểu chuyện, sao ngươi không báo mộng cho hắn nặn tượng giống ngươi?" Người áo đỏ gối đầu lên xà nhà mà hỏi.

Người áo đen hờ hững đáp, "Cũng không quan trọng."

"Ngươi xem ra cũng hào phóng nhỉ, cũng không sợ lãng phí."

"Quỷ áo đỏ một mồi lửa thiêu trụi ba mươi ba thần miếu lại còn sợ lãng phí à?"

Người áo đỏ chỉ cười không nói, sửa sang lại cổ tay áo bó chặt, lười không muốn đối đáp với người này.

Kẻ áo đỏ kia đúng là thành chủ chợ quỷ đã hỏa thiêu ba mươi ba thần miếu, còn người áo đen nghiễm nhiên là Huyền Quỷ Hạ Huyền.

Mấy năm trước xảy ra vụ việc trên Hắc Thủy đảo, trong ngũ sư trên Thiên đình thì Địa Sư, Thủy Sư, Phong Sư đều đột ngột không còn. Phong Thủy nhị sư trước khi phi thăng vốn là huynh đệ, trong dân gian vẫn thờ cúng một miếu, mà sau khi nhị sư chết đi, rất nhiều Phong Thủy miếu cũng không còn bái thần quan, đều đổi sang bái quỷ. Kẻ được cúng bái chính là quỷ áo trắng có tên Thương Hải Vô Độ. Ngược lại, miếu Địa Sư chỉ còn duy nhất một tòa này. Chỉ có điều Địa Sư đã sớm quy tiên, toàn bộ kỳ nguyện trong miếu đều đặt lên vai Hạ Huyền, hắn không hủy tượng thần cũng không đổi tên miếu, đương nhiên cũng không thụ hưởng những nhang đèn cung phụng dành cho nguyên chủ nơi đây.

Hoa Thành biết người nọ vẫn còn một món nợ rối tinh, dù gì thì năm đó hắn cũng đã gặp qua thuật Hỏa Long Khiếu Thiên cháy suốt hai nén hương ấy. Món nợ này không giống nợ tiền bạc của hắn, khi nào thanh toán đủ phải là do người này quyết định. Hoa Thành từng nói đùa, chỗ công đức lớn thế kia mà đem chôn ở cái mộ xẻng sau vườn ấy, nếu mà để chúng quỷ trong chợ quỷ của hắn biết được, thì bọn chúng đã sớm đến đào tung cả ngôi miếu này lên rồi.

Thực ra chúng quỷ không biết trong mộ này có chôn công đức, nhưng trên phố đã sớm có lời đồn rằng nơi đó chôn bảo bối của Huyền Quỷ. Đến hôm nay vẫn không ai dám tới lấy, đương nhiên là vì sợ bị kẻ kia trừng trị. Lại có kẻ vừa xấu tính vừa lớn mật, mỗi ngày đều đóng giả Hạ Huyền, nói rằng Huyền Quỷ có khi là kẻ điên, trần đời chưa gặp ai có thứ tốt mà không lấy ra dùng, không những vậy còn đem đi chôn. Sau này kẻ kia xui xẻo bị Hạ Huyền bắt gặp, lưỡi bị thắt gút lại, nên những lời như vậy chỉ còn tiểu Bạch Thoại Tiên Nhân không sợ sống chết kia dám nói.

Hoa Thành mân mê hạt châu đỏ trên tóc, nói, "Ngươi đi đấu với Thủy Hoành Thiên, nếu có đi mà không về, miếu này có khi ta sẽ cho người đến quật."

Hạ Huyền lờ đi lời khích bác này, đáp, "Ngươi cũng chẳng nợ ai, thích quật thì quật."

Từ sau đêm đó, Sư Vô Độ rút về nơi Sư Thanh Huyền đã phi thăng năm ấy, lập một quỷ chướng khổng lồ chụp ở trên trấn Bác Cổ, điệu bộ vẫn ngang tàng như trước, nhưng không hiểu sao không tìm Hạ Huyền để kiếm chuyện. Như vậy cũng vừa khéo để Hạ Huyền xử lý xong chuyện thủy lợi trên sông. Hiện giờ công sự đã thành, Hạ Huyền hạn định với Sư Vô Độ lấy ngày hàn lộ để kết thúc mọi chuyện. Sư Vô Độ đương nhiên không ngại, cũng nhanh chóng đáp ứng chiến thư.

Ngày mai đã là hàn lộ, hôm nay hắn hẹn Hoa Thành tới đây chính là muốn gửi gắm trọng trách. Nhưng người này cũng hiểu được thế nào là giả bộ hồ đồ, hắn biết trong mối quan hệ của hắn với Hoa Thành, nếu tính ra thì hắn vẫn còn nợ hắn ta, nên đương nhiên cũng không có tư cách đề nghị. Vì vậy nên hắn chỉ mời Hoa Thành uống rượu, để hắn ta ngồi trên xà nhà nhìn những người cúng viếng dáng vóc tiều tụy đến rồi lại đi, cứ lặp đi lặp lại như một lời ký thác khó nói.

"Được rồi." Hoa Thành ném bình rượu trong tay đi. "Điện hạ còn ở trong thành, ta không có thời gian dây dưa với ngươi. Ta có thể thay ngươi lo cho cái quán này. Nhưng nếu lúc đó ngươi không về, miếu thì vẫn sẽ còn, nhưng thần chưa chắc sẽ là vị này, ngươi cũng đừng có trách ta."

Hạ Huyền nhẹ giọng chế nhạo, "Còn thay được thành ai ngoài Tiên Lạc thái tử chứ."

Hoa Thành đứng dậy, lấy ở trong vạt áo ra hai viên xúc xắc, đáp, "Ta tạm coi như đồng ý với ngươi là vì sợ ngươi trong lòng cố kỵ, không xử lý được Thủy Hoành Thiên." Lời này vừa nhắc lại là đã thấy quen thuộc, hắn gần như có thể tưởng tượng được Hạ Huyền sẽ nhếch khóe miệng, nói mấy lời không nghe được như "nhà tan cửa nát" mà hắn ta đã từng thốt ra.

Lại chẳng ngờ Hạ Huyền chỉ nhấc chén uống hớp trà, chẳng nói một câu.

Hoa Thành trầm ngâm một lát, thầm nghĩ, người này vài năm gần đây đã thay đổi rất nhiều.

Vạn quỷ là nhờ cái cố chấp trong con người mà sinh sôi, đây là căn cốt, vì vậy nếu đã không thể phá bỏ ý niệm thì chỉ có thể thay da đổi thịt mà qua ngày đoạn tháng. Một khi ý niệm này đã không còn, thì ngược lại cũng không thể giữ được gì. Đây là lời thế gian thường đồn, cũng lý giải vì sao Tuyên Cơ vừa mất đi nỗi lòng đau đáu liền lập tức tán hồn trong nhà tù tăm tối. Còn trước mặt hắn đây, cái kẻ hắn đã quen biết hơn trăm năm này lại hoàn toàn trái ngược. Đã thành quỷ mấy trăm năm, nhưng trước sau vẫn tìm được cảm xúc làm người. Thể nghiệm này hắn cũng đã từng trải qua, nhưng huyền cơ là chuyện vốn không thể nói rõ.

Nhưng việc trước mắt vẫn là quan trọng nhất. Bấm đốt ngón tay tính toán, hắn đã rời khỏi người nọ trong thành gần một canh giờ.

Nghĩ tới đây, xúc xắc trong tay Hoa Thành lập tức va chạm, xích bạc dưới giày khe khẽ vang, bước chân đưa hắn về Cực Lạc Phường. Đã giao phó được việc cho người này, Hạ Huyền cũng không còn gì níu giữ, chỉ hơi nghiêng người đã mất dạng.

Đêm xuống, chợ quỷ mới trở nên rực rỡ ánh đèn. Hoa Thành đưa Tạ Liên lên phố dạo chơi, nhìn ngắm biết bao quần ma loạn vũ. Nhưng trong vườn thuốc sinh hoạt như nhân gian, mọi thứ đã sớm chìm vào yên tĩnh, trong hồ nước chỉ còn nhàn nhạt ánh đom đóm lay động.

Trên ngôi mộ ven hồ không biết tự khi nào đã có thêm một vò rượu, không phải loại La Phù Xuân thường bán trong chợ quỷ, mà là Thu Bạch Lộ đã một thời nổi tiếng ở Hoàng Thành. Trên mái nhà, Hạ Huyền chìm trong ánh trăng, trong lòng thầm nghĩ, trước đêm hàn lộ uống rượu này cũng vừa hay. [3]

Ngày đêm xoay vần, gió sông lại nổi.

Thần cách Phong Sư đã không còn, chỉ còn làn gió vô chủ lướt qua đôi mày của hắn, mơn trớn nơi vành tai.

Điểm kết thúc này cuối cùng đã tới, hắn vốn nên cảm thấy sảng khoái, nhưng hiện giờ sảng khoái rồi cũng chẳng được thuần túy, chẳng được trọn vẹn. Bây giờ nghĩ lại, những ngày còn chìm trong thù hận vẫn là thoải mái hơn hết thảy. Chỉ cần giao cho hận ý thì sẽ không thấy hoang mang, không phải tự chịu tổn hại giữa vô vàn mâu thuẫn. Hắn lúc này đã thấu hiểu nhân sinh, [4] mặc dù vẫn còn rất hận Sư Vô Độ, nhưng lại không chỉ vì nỗi hận này mà sống. Hắn có thể bình tâm mà chứng kiến chính mình trong thiên địa mênh mang, nhìn rõ được ba thái cực đang ràng buộc bản thân mình. Cực đầu tiên là dư hận chưa tan, hướng đến quỷ chướng nơi trấn Bác Cổ, cực thứ hai là thiện duyên chưa thể chấm dứt, hắn coi như đã phó thác cho Hoa Thành. Còn một thái cực lơ lửng giữa không trung, bặt vô âm tín.

Di vật và y phục của Minh Nghi hắn đều đã táng vào mộ phần, chỉ có một thứ duy nhất không đành lòng chôn đi mà giữ lại. Ban đầu hắn vẫn không nhịn được thử đem ra dùng, sau rất nhiều thất bại cũng đã dùng ít đi, nhưng cho đến hôm nay vẫn luôn mang theo bên mình.

Hắn lật năm ngón tay, lấy từ trong tay áo ra một chiếc tá hồn phiên cũ nát.

Vườn thuốc này hắn không thường tới thăm, thứ này cũng không thường dùng, chỉ là đại chiến sắp tới, hắn đột nhiên rất muốn cùng bằng hữu uống một chén.

Hoa Thành có thật nhiều bằng hữu, mà từ trước tới nay làm bạn cùng với hắn, tính đi tính lại, cũng chỉ có một người.

Hạ Huyền chậm rãi rót pháp lực vào tá hồn phiên nọ, đáng tiếc trời không chiều người, mảnh cờ kia vẫn lặng yên không xao động.

-tbc-

Lời tác giả:

Một chương filler, cuối cùng thì Thanh Huyền cũng được nghỉ ngơi (?)

Bài học vỡ lòng của tiểu Bạch Thoại coi như tính trên đầu hai người này đi...

Lời dịch giả:

Vâng hai năm qua anh Quỷ vương vẫn cố gắng chiêu hồn vợ.

Cứ chương nào Cải Trắng kêu là filler là toi lại khóc muốn mù mắt...

Chú thích:

[1] "Không phải nói vớ vẩn, là bạch thoại": Ở đây chơi chữ, vì "nói vớ vẩn" nguyên văn là "hoàng khẩu," nhưng "bạch thoại" cũng có nghĩa là lời nói vớ vẩn, lời nói nhảm. Mà như mọi người đã biết, bạch thoại ở đây chính là chỉ Bạch Thoại Tiên Nhân.

[2] Phiến Tử ca ca: phiến tử là cây quạt, là biệt danh tiểu Bạch Thoại đặt cho Sư Thanh Huyền. Nhưng mà, ờm, không thể dịch là Cây Quạt ca ca được...

[3] Thu Bạch Lộ – đêm hàn lộ: đoạn này tâm đắc quá nên phải chú thích. Thu Bạch Lộ là loại rượu đã xuất hiện ở chương 1, nghĩa đen là "nước móc mùa thu," cũng là rượu mà Sư Thanh Huyền yêu thích. Tiết hàn lộ vừa vặn rơi vào mùa thu, lịch bên mình vẫn gọi là "mát mẻ," nhưng nghĩa đen là "nước móc lạnh." Chính vì vậy mà Hạ Huyền mới cho rằng uống Thu Bạch Lộ trước tiết hàn lộ là "vừa khéo."

Bên cạnh đó, "thu" trong Thu Bạch Lộ cũng đối xứng với "xuân" trong La Phù Xuân. Hai loại rượu này, một ở Hoàng Thành, một ở chợ quỷ, cũng để chỉ tính đối lập giữa hai vị Quỷ vương vậy.

[4] "Hắn lúc này đã thấu hiểu nhân sinh": câu này là mình tạm dịch.

Nguyên văn cụm "thấu hiểu nhân sinh" là "thấy núi là núi, thấy nước là nước," thuộc một trong ba loại cảnh giới nhận thức trong tham thiền Phật học. Đầy đủ là "Thấy núi là núi, thấy nước là nước. Thấy núi không phải núi, thấy nước không phải nước. Thấy núi (vẫn) là núi, thấy nước (vẫn) là nước."

Để giải thích một cách ngắn gọn, cảnh giới nhận thức đầu tiên là đánh giá sự vật qua vẻ bề ngoài – thấy núi chỉ biết núi, thấy nước chỉ biết nước. Sang đến cảnh giới thứ hai, người tham thiền đã hiểu được sự vật không chỉ như vẻ bề ngoài – thấy núi biết rằng đó không chỉ là núi, thấy nước biết rằng đó không chỉ là nước. Đến cảnh giới cuối cùng, người tham thiền đã ngộ đạo, nhận thức được bản chất sự việc. Lúc này thấy núi, biết núi, hiểu bản chất của núi; thấy nước, biết nước, hiểu bản chất của nước.

"Thấy núi, thấy nước" trong trường hợp của Hạ Huyền chính là cảnh giới thứ ba, hắn lúc này đã hiểu được yêu hận, cũng không còn chấp nhất với nỗi hận hướng về Sư Vô Độ. Nói cách khác, nếu không phải vì anh Quỷ vương vẫn còn vợ không thể bỏ + vẫn còn lăm lăm muốn đi gϊếŧ người, thì chắc anh cũng thành thiền tông được đấy...