Mục quang của Hương Tổ Lâu lại trợn trừng, ý vị hỏi han càng nồng đậm!
“Ngươi yên tâm!”. Tôn Vũ trầm giọng, trịnh trọng thốt: “Ta đã đáp ứng chuyện của ngươi, tất sẽ làm cho ngươi”.
Tròng mắt của Hương Tổ Lâu tản mác, hữu chưởng lật lại, đột nhiên rút đoản kiếm khỏi yết hầu.
Kiếm vừa rút ra, giọng nói của y cũng trào ra theo.
Y gầm lên: “Đa tạ!”.
Dứt tiếng thì cũng đứt hơi, đầu ngoẹo về một bên!
Máu từ yết hầu của y phún ra, thấm ướt sàn cầu, lại không ướt tới ngực áo y, cho nên Tôn Vũ tịnh không gấp gáp đi lấy hai tờ ngân phiếu.
Hắn không lắc đầu, cũng không thở dài, phảng phất không bị lay động tâm thần.
Hắn thong dong từ từ lượm lại vỏ kiếm, tra ngân kiếm vào vỏ, lại đi tới bên cạnh Hương Tổ Lâu, tháo gỡ năm ngón tay phải của y, lấy đoản kiếm ra, lau sạch máu, cẩn thận nhét lại bên giày trái.
Ánh mắt của hắn vẫn bình tĩnh làm sao, cử chỉ của hắn vẫn trấn định làm sao.
Nhưng khi hắn thò tay rút hai tấm ngân phiếu ra khỏi mình Hương Tổ Lâu, tay của hắn không ngờ lại run run.
Cơ hồ cùng một lúc, mắt của hắn cũng run run.
Hắn chợt dụng lực nắm chặt hai tờ ngân phiếu đó, nắm thật chặt, gân xanh trên lưng bàn tay lồ lộ vồng lên!
Tôn Vũ thì thầm: “Người nên nói lời đa tạ không phải là ngươi, mà là ta...”.
Hắn thở dài, ngước mắt nhìn, mưa lắc rắc đã tạnh, sắp sang canh ba. Hắn chung quy đứng dậy, cất bước.
Ánh đèn thê lương, in dài bóng hắn.
Hắn đạp lên bóng mình, bước vào nơi sâu thẳm hắc ám...
* * * * *
Đèn, ngân đăng, phú quý đăng.
Người bên đèn tựa vầng trăng, cổ tay trắng muốt tựa sương tuyết.
Người còn chưa tới hai mươi, rất trẻ, rất đẹp, nước da cũng quả thật như sương như tuyết. Hữu thủ của nàng chìa xuống cầm cái thìa ngọc, khươi khươi hương đang đốt trong Văn Vương đỉnh, tả thủ chống nhẹ trên má thơm, nửa người tà tà dựa trên cái bàn điêu khắc chim muông, u u ngồi đó!
Ánh đèn từ bên cạnh bắn rọi, in bóng đèn lợt lạt trên mặt nàng, ngươi càng hiển lộ vẻ mỹ miều.
Mưa rì rào ngoài rèm, xuân ý rã rời. Xuân ý trong mắt nàng lại nồng đậm.
Gió chợt luồn qua song cửa, lùa qua bên đèn.
Ánh đèn lắc lư, khói mỏng lan ra từ Văn Vương đỉnh cũng lung lay.
Khói mỏng phiêu phưỡng chợt quẩn quyệt giữa ánh đèn, còn chưa bay đến trước mặt nàng, nàng đã nhăn mặt nhíu mũi, hé môi thổi một làn hơi.
Khói mỏng liền bị thổi tan, phiêu diêu xa xa, nhưng rất mau chóng ngưng tụ lại, lại theo gió lơ thơ quay trở lại!
Mũi nàng càng nhíu chặt, lắc lắc đầu, không thổi nữa, chỉ thở dài: “Xuân phong...”.
Mới nói được hai tiếng, đã có “người” nói tiếp cho nàng: “Xuân phong bất tương thức, hà sự nhập la vi?”.
Thanh âm phát ra từ trên đầu nàng, ở đó không có người, chỉ bất quá có một con két xanh đang đậu trên giá.
Con anh vũ đó há miệng, chữ “vi” lăn tăn dư âm còn bồi hồi trên đầu lưỡi!
Gió xuân không quen biết, cớ sao vào màn the? Không phải là hai câu cuối trong bài “Xuân Tư” của Lý Bạch đó sao?
Một con két không ngờ có thể đọc Đường thi. Thứ két đó có được là bao? Tốn ngàn vàng, đối với người giàu có mà nói, cũng đáng giá.
Cho dù là xảo hợp, cũng đáng tán thưởng!
Nhưng nàng tựa hồ tịnh không tán thưởng, nàng không nói gì, chỉ ngước nhìn con két xanh, trong mắt cả một chút xíu ý cười đùa cũng không có, chỉ có vẻ bực bội.
Khói mỏng lại là là bao quanh nàng.
Mắt nàng liền cúi xuống, càng bực bội!
Chỉ tiếc, con két có lẽ còn sợ mục quang của nàng, khói lại không.
Nàng phất tay áo, khói bay tản đi, nhưng hương khí đã thấm đượm gác lầu nhỏ, có phất cũng phất không sạch.
Thơm, rất thơm, là hương gì vậy? Đàn hương!
Lục anh vũ, đàn hương, không phải là những vật yêu thích của “Cẩm Y Hầu”
Hương Tổ Lâu sao?
Mùi thơm của đàn hương say hồn, anh vũ có thể nói chuyện cũng đáng lẽ làm cho người ta hoan hỉ, nhưng nàng lại rõ ràng căm ghét đến cực điểm.
Sao nàng lại phải ngồi dưới anh vũ, bên đàn hương?
Không ai có thể chịu làm chuyện mình căm ghét, bắt mình làm chuyện mình căm ghét, trừ phi là bị bức bách không còn chọn lựa!
Đèn đơn chiếc, nàng cũng đơn chiếc một bóng.
Cửa tiểu lâu đóng kín, nàng vốn có thể thích làm gì thì làm, nhưng nàng vẫn ngồi dưới con anh vũ, bên đàn hương!
Trong tiểu lâu không có ai khác, nhưng tâm can nàng lại gánh chịu một ống khóa vô hình, có người hay không có người, đối với nàng mà nói đều không khác biệt gì, cũng không cần biết bức bách hay không bức bách.
Nàng cưới người thích nàng, tất nhiên sẽ chịu nhường nàng, không để cho nàng lạnh lẽo phòng khuê.
Nàng nếu cưới người nàng thích, tất nhiên nàng sẽ chịu nhường, ngày dài thành tự nhiên, không quen cũng thành quen, ghét gì anh vũ học nói bên tai, căm gì đàn hương lượn lờ trước mắt.
Cho nên nam nhân muốn cưới vợ, tốt hơn hết là chọn nữ nhân thật lòng thích mình, nữ nhân muốn cưới chồng, tốt hơn hết là chọn nam nhân thật lòng thích mình.
Không còn nghi ngờ gì nữa đó là tình cảm phiến diện, nhưng tình cảm giữa nam nữ lúc ban đầu thử hỏi có bao nhiêu không phải là phiến diện.
Vấn đề là mình đang có phước mà không biết có phước, người biết được người ta thích cũng chính là hạnh phúc, tựa hồ rất ít.
Người không thích nàng, cũng không phải là người nàng thích, vậy tại sao nàng cưới người đó?
Thật ra là người thích nàng, chỉ bất quá thứ người đó khác với người bình thường!
Thứ người đó khinh tài hiếu khách, là đại trượng phu, đại anh hùng trong mắt người ta. Đối với bằng hữu, thứ người đó luôn luôn hết lòng, vì công nghĩa, thứ người đó thậm chí không ngại máu chảy đầu rơi.
Nếu gặp loạn thế, thứ người đó có thể hô phong hoán vũ, cho dù đang thời bình, thứ người đó cũng không khó được giang hồ ưa chuộng. Ai muốn tìm bằng hữu, đều trước hết tìm đến thứ người đó, vì vậy thứ người đó tuyệt không có ít bằng hữu.
Cũng vì có quá nhiều bằng hữu, thứ người đó tối ngày cứ lo liệu cho bằng hữu, không còn thời gian lý gì tới vợ mình nữa.
Cũng vì bằng hữu quá đông, thứ người đó không có ngày nào là không tiền hô hậu ủng, vĩnh viễn không biết mùi vị tịch mịch, càng không hiểu nỗi thống khổ của tịch mịch.
Lúc rượu vào lời ra, tỳ bà réo rắt, chiêng trống rập rền, cùng bằng hữu say sưa cuồng ca Đại Giang Đông Khứ, thứ người đó tuyệt không thể nhớ đến vợ mình đang cô đơn tịch mịch trong khuê phòng, trang điểm chờ đợi nhỏ giọng hỏi phu tế, vẽ đôi mày đậm lợt thể nào?
Làm vợ của thứ người đó, quả thật không dễ!
Cũng không cần người bên cạnh phải nói, thứ người đó tự mình thủy chung sẽ có lúc quay về, cố rặn hai câu, mới vào cửa lại đã ra cửa, để chứng minh khí khái trượng phu của mình, không thể không đi xa làm khách vài tháng, để người làm vợ mộng năm canh vạn dặm, chờ ngày về xa xăm.
Tịnh không phải là vô tình, bất quá thứ người đó sợ bị người đời cười chê hơn!
Nhi nữ tình trường, anh hùng khí đoản, đạt nhân sở sỉ, tráng sĩ bất vi, cũng là tín điều của thứ người đó.
Có lẽ có ngày thứ người đó sẽ phát giác mình không đúng với vợ mình, sẽ cảm thấy hối hận, nhưng sợ rằng chuyện đã quá trễ rồi.
Ngày tháng thườn thượt đó, nào phải dễ qua.
Nhưng vô luận ra sao, làm vợ của thứ người đó phải tuân hành đúng mực, nếu không, hậu quả tất đừng kham thiết tưởng!
Đại trượng phu khó gánh vác chuyện thê tử bất hiền bất hiếu, lề thói đã từ rất lâu rồi, trong gia đình phát sinh chuyện gì, đều không liên quan gì đến thứ người đó, càng chỉ có đồng tình, không có dị nghị.
Người hết lòng vì bằng hữu, vị tất hết lòng vì vợ...
“Cẩm Y Hầu” Hương Tổ Lâu cũng là thứ người đó, nàng cũng là vợ của “Cẩm Y Hầu” Hương Tổ Lâu, Thư Mỵ!