Chương 13: Hậu Cung Marocco

“Tôi không sao, chúng ta đang đi đâu thế?”

“Tối nay mình sẽ lưu lại kasbah tại tư thất của một trong những vị Sheik có thế lực nhất ở miền nam Ma Rốc.”

Leo tròn xoe mắt nhìn anh.

“Ông muốn nói là… hậu cung?”

“Ý nghĩa hậu cung ở Ma Rốc không hẳn giống như ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cậu sẽ không nhận ra sự khác biệt nào đâu.”

Tôi im lặng không nói lên lời.

Cậu đột nhiên cảm thấy sợ hãi hơn bao giờ. Cái vùng đất xa lạ này kinh hãi quá, cậu lại không có một chút kiến thức nào, ở đây thân thế cậu không quan trọng ngoại trừ cậu thuộc về Tyrone.

Như đọc được cảm tưởng của cậu anh nói.

“Mình chỉ ở đó một đêm thôi, nhưng việc hệ trọng là tôi phải tiếp kiến không những Sheik Hassam El Zigli là chủ nhà chúng ta sắp đến, mà còn gặp các vị Sheik và Caid (thủ lĩnh địa phương) khác ở các vùng lân cận.

“Tại sao ông muốn gặp họ?” tôi thắc mắc.

Cậu hoài nghi không biết Tyrone có nói thật với mình không hay có đang có điều gì đó liên quan đến những khám phá bí mật của anh ta.

Nhưng cậu vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh trả lời.

“Tôi đang viết sách.”

“Sách?”

Qủa thật cậu không bao giờ tưởng tượng sẽ nghe anh ta nói như thế này.

“Điều đó làm cậu ngạc nhiên lắm sao? Ma Rốc bao giờ cũng là một đất nước đầy bí ẩn, rất ít người biết được, và người ta lại càng biết ít hơn về dân cư sống trong đó.”

Tôi vẫn chăm chú nhìn anh.

Mặc kệ là mình đang ở trong hoàn cảnh nào, cậu rất hứng thú, vô cùng hứng thú và chỉ sợ anh sẽ ngưng không nói tiếp những điều cậu ao ước muốn biết.

“Khoảng 86% dân số Marocco là Berber hay Ả Rập, giống dân Berber thì tuyệt vời, họ là cột trụ huyền bí cổ xưa nhất của vùng bắc Phi.

Anh bật cười trước lời lẽ lãng mạn của chính mình đoạn nói tiếp.

“Họ là người miền Địa Trung Hải, không phải dân da đen hay người Semitic. Thật ra chỉ có Chúa biết họ đến từ nơi nào.”

“Ông định viết về họ à?”

“Tôi đang gặp khó khăn tìm tất cả tài liệu cần thiết để viết sách. Họ sống ở bắc Phi trong những vùng núi non từ thuở khai thiên lập địa. Những vị Phraohs của Ai Cập bị thu hút bởi nét huyền bí của họ, gọi họ là Lebu. Người Hy Lạp thì cũng cùng mức độ bí ẩn như sắc dân này thì được gọi là Nomade. Không một ai biết từ Berber xuất phát từ đâu.”

“Ông thích họ sao?”

“Tôi cảm thấy thu hút bởi giống người này. Họ không hề bị hủy hoại bởi nền văn minh hiện đại.”

Anh bật cười.

“Có nơi nào trên thế giới cậu sẽ tìm thấy tình trạng nô ɭệ được xem như một vấn đề tất nhiên, đàn ông sẵn sàng sống trên đầu gươm mũi súng, còn người yêu và nữ thì thuần khiết phục tùng.”

Những chữ cuối chứa đầy ẩn ý nhắm vào cậu, cho cậu biết rằng anh đang mỉa mai cậu, nhưng một lần nữa tôi không cảm thấy phiền hà.

“Nói cho tôi nghe nữa đi.” Cậu nài nỉ.

“Rồi cậu sẽ thấy thế giới này đáng để học hỏi và khám phá, nhưng nếu muốn đến đó sớm tôi đề nghị cậu ăn nhanh lên.

Vì quá đói tôi nghe lời anh ngay. Cả hai cùng yên lặng dùng bữa. Cậu có cảm tưởng đây là bữa ăn tây phương chót mà còn lâu lắm mới ăn lại được, lòng hoang mang không biết chuyện gì sẽ xảy ra nay mai.

Ngay khi họ ăn xong, mọi người lại lên đường. Cảnh vật chung quanh bắt đầu thay đổi, mặt đất trở nên gập ghềnh khó đi hơn. Thình lình đằng trước dường như xuất hiện một thành trì khổng lồ, kiên cố. Tôi sửng sốt vì kiến trúc quá lớn, bao quanh bởi những lớp thành lũy phòng thủ đủ kích cỡ khác nhau.

Đầu thành hơi vượt lên một chút, các tòa nhà được bao quanh bởi những lớp lũy rất cao tua tủa lỗ châu mai, đó đây trên mặt lũy những ngọn tháp đồ sộ vươn lên sừng sững.

Khi đến gần thành trì dường như hùng vĩ hơn gấp bội lần, tôi nhanh chóng nhớ lại những điều cậu đọc được trong sách về kasbah.

Thành kasbahs cũng tương tự như một lâu đài lớn thời trung cổ, là nơi cư trú của tù trưởng bộ tộc cùng với tất cả thuộc hạ và người ăn kẻ ở, và mọi người trung thành dưới trướng của ông ta.

Ngoại trừ người, gia súc của tù trưởng đều được trú ngụ trong thành. Vào ban ngày mọi súc vật đều được lùa ra ngoài để làm lụng hoặc tự kiếm ăn, đến tối bọn chúng lại được lùa trở vào thành. Thật ra kasbah không phải nơi cư trú mà là một lãnh địa, một dinh cơ tự túc. Cư dân trong lãnh địa tự cung cấp chế biến những sản phẩm dùng trong đời sống hàng ngày ngoại trừ trà, café, và đường.

Giờ đây Tyrone đã đến trước cánh cổng gỗ khảm đồng đồ sộ, một nhóm những người mặc áo thụng trắng chạy mở cửa chào đón anh. Họ đưa mọi người vào bên trong, tôi thấy hàng loạt những hàng lang ngoằn ngoèo kế tiếp nhau, thỉnh thoảng cậu liếc thấy những khoảng sân và hồ phun nước xen kẽ.

Vẫn ngồi trên kiệu, cậu được dẫn qua những lối đi vòng vèo như trong một mê cung đầy những người, trẻ con, gia súc cho đến khi họ đến một nơi mà cậu đoán chắc là trung tâm của kasbah, chỗ ở của tù trưởng.

Ở đây mọi vật đều khác hẳn với bên ngoài. Cậu đi theo Tyrone qua một cánh cửa được trạm trổ cầu kỳ đến một nơi mà cách trần thiết có thể mô tả như một cung điện. Nhìn từ bên ngoài, cung điện trông nặng nề ảm đạm, không có một cửa sổ nào. Nhưng thật lạ kỳ bên trong là sàn nhà được ghép đá tinh vi, tường trổ hoa văn hay cẩn gạch màu hình thù cầu kỳ. Trần nhà lót gỗ cũng được chạm khắc tỉ mỉ và sơn màu đậm. Những hàng cột được chạm trổ trên đỉnh dùng để ngăn các phòng. Và đó đây là những bình phong mắt cáo tuyệt đẹp.

Sàn nhà được phủ bằng những miếng thảm đủ màu High Atlas, trên đó cơ man là những chiếc gối dùng để qùy bằng lụa thêu – đỏ, lục, trắng, còn gối vàng thì làm bằng da dê. Đèn l*иg bằng lụa được treo khắp nơi. Cả cung điện bàng bạc vẻ huyền bí đông phương mà Nevada không sao diễn tả được.

Sheik Hassan El Zigli là một người đàn ông lớn tuổi râu tóc bạc phơ, thắt lưng gắn đoản kiếm vỏ cẩn đá qúy. Thấy Tyrone ông ta vội bước ra chào rất cung kính, nhưng lại tảng lờ tôi đang đứng phía sau Tyrone. Chỉ đến khi hai người trò chuyện một hồi, Tyrone mới nhắc đến sự hiện diện của tôi. Hiểu ra, vị Sheik búng tay ra lệnh.

Một người hầu xuất hiện và ra dấu cho tôi đi theo anh ta.

Cậu đột nhiên cảm thấy lo sợ phải rời Tyrone khi bước vào hành cung to lớn này, mà dường như là kết hợp nửa cung điện, nửa là khu ổ chuột. Nhưng rồi cậu tự nhủ tỏ ra sợ hãi thì càng làm cho anh ta coi thường mình hơn thôi. Không quay đầu lại nhìn anh, cậu bước theo người hầu. Một lần nữa họ lại đi vòng qua những lối đi ngoắt nghoéo dường như rất dài.

Cuối cùng thì họ đến trước một cánh cửa nguy nga được chạm trổ và trang trí theo kiểu Moorish, người hầu gõ lên cửa vài tiếng. Từ bên trong một người phụ nữ che mạng bước ra mở cửa. Dù cậu không hiểu hai người nói gì với nhau, nhưng cậu đoán biết anh ta đang giới thiệu cậu là ai.

Người phụ nữ ra hiệu cho cậu vào trong và đóng ngay cửa lại, tôi bỗng dưng cảm thấy mình cô độc hơn bao giờ hết. Bà ta nói một thôi một hồi với cậu nhưng cậu chỉ lắc đầu tỏ ý không hiểu. Rồi cậu lại được dẫn theo một lối khác đưa đến một căn phòng lớn, có một số các bà các cô đã ở sẵn trong đó. Họ không che mạng, người thì ngồi trên sàn, kẻ thì ngồi trên những tấm thảm màu hay trên trường kỷ thấp bọc nhung đỏ. Trong số họ, có vài người còn trẻ còn lại phần lớn là phụ nữ đứng tuổi tóc bạc da mồi. Ai nấy đều mang đầy trang sức, tôi đoán họ là họ hàng của vị Sheik. Tất cả đàn bà trong gia đình hay họ hàng của tù trưởng đều ở cung riêng dành cho phụ nữ.

CHẮC HỌ TƯỞNG TÔI LÀ PHỤ NỮ🤣 ( vẻ ngoài của tôi đẹp đôi khi nhiều người không biết giới tính của tôi)🤣😁😊

Một bà tóc bạc vẫy tay gọi Tôi đến ngồi trên trường kỷ cạnh bà. Liền sau đó một phụ nữ khác trẻ hơn, ăn mặc rất đơn giản mà Tôi đoán là nô tì, đem đến cho cậu một ly trà bạc hà. Trà tuy ngọt và nóng, nhưng là một thức giải khát rất tuyệt mà cậu chưa từng uống bao giờ. Ngay sau khi uống xong, người nô ɭệ lại rót cho cậu một lượt nữa. Lần này cậu uống chậm rãi, nhìn quanh phòng cậu cảm thấy thú vị – ngồi trong hậu cung là cả một tao ngộ kỳ thú mà chỉ rất ít người tây phương mới hân hạnh có được kinh nghiệm này.

Vài người mang vòng đeo cổ bằng mã não nặng trĩu, số khác mang vàng hay bạc cẩn thạch anh tím lấy từ rặng núi High Atlas, hay cẩn lam ngọc, san hô, và các loại đá khác tôi không thể nhận ra hết, nhưng cậu đoán lấy từ các mỏ trong các vùng lân cận.

Tôi quá hào hứng, cảm thấy có biết bao điều muốn biết, muốn hỏi. Cậu uớc phải chi thay vì gây với Tyrone trên tàu cậu có thêm cơ hội để học tiếng Ả Rập. Khi cậu gần như cạn kiệt mớ ngôn ngữ bằng tay này một người đàn bà nữa xuất hiện trên tay bế một đứa bé. Các bà kia chỉ vào Tôi và giải thích cho người mới tới cậu là ai.

“Vous parlez Francais?” (cô nói được tiếng Pháp không?) Người mới tới nói tiếng Pháp bằng giọng rất nặng, khiến tiếng Pháp của bà ta nghe rất khó hiểu.

“Oui, oui,” (vâng) Tôi hăng hái trả lời.

Quả thật là khó để hiểu được bà ta nói gì, phần vì tiếng Pháp của bà ta rất hạn chế, phần vì phát âm quá tệ, nhưng họ cũng ráng trao đổi với nhau. Qua người phụ nữ này Tôi hiểu được các bà lớn tuổi là mẹ, bà, chị em, và cô dì của tù trưởng. Ông ta có tất cả 4 bà vợ chính thức như luật Hồi giáo cho phép, và các thiếu nữ trẻ hơn là cung phi. Nước da của họ có màu tái, nhạt hơn màu café một chút, đường nét thanh tú, khuôn mặt họ rất thu hút. Tóc để dài, đen mướt như lụa. Người nào cũng có dáng dấp uy nghi đường bệ khiến cho họ rất nổi trội trong bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Có hai người trong số họ đẹp đến nỗi nếu ở New York hay London, họ sẽ nổi danh nhanh chóng.

Điểm thêm trên khuôn mặt xinh đẹp là đôi mắt đen rất to, mũi ngắn, hai cánh môi cong đầy đặn, nhưng nét nổi bật hơn hết chính là vẻ tự tin của họ. Các bà các cô ở đây không ai cười khúc khích ngượng ngùng như các cô học trò ở New York, hay tỏ vẻ thẹn thùng, hoặc nhìn đăm đăm vào cậu như cậu nghĩ họ sẽ làm vậy với khách lạ.

Nụ cười của họ khả ái và thân thiện. Lúc mọi người ngồi xuống dùng bữa, dù ngôn ngữ bất đồng thái độ của họ làm cậu không còn cảm thấy sợ hãi. Họ chia nhau ra ngồi trên thảm hay trên những tấm đệm, các nô tì tiếp cho họ món soup cũng là món chính gọi là harira. Soup này được nấu bằng gà, thịt cừu khô, chick peas, ngò, gừng, hành và nghệ.

Khi mọi vật liệu chín kỹ, người ta cho thêm gạo và các gia vị vào. Ăn chung với món này là cà chua, bánh mì và trứng. Hai tô soup harira là quá đủ cho tôi, đặc biệt là còn kèm theo món kẹo truyền thống của dân Moorish được làm bằng hạnh nhân ngào mật ong rất thơm ngon.

Sau bữa ăn là thế nào cũng có thức uống là trà bạc hà. Khi bữa ăn kết thúc, tất cả các bà các cô đều nhổm dậy với lấy litham, và y như là ảo thuật mạng che nhanh chóng xuất hiện ngay trên mặt họ.

Tôi nhìn người đàn bà nói tiếng Pháp một cách dò hỏi.

“Có biểu diễn ca múa,” bà ta giải thích. “Chúng ta đi xem ca múa.”

“Ở đâu thế?”

Bà ta không biết cách nào để giải thích nên đành nắm lấy tay Tôi dắt cậu đi theo những người khác đến một khoảng sân rộng bao quanh bằng các tấm bình phong lưới mắt cáo. Bên dưới cậu thấy các vị tù trưởng mặc áo thụng trắng ngồi trên những tấm đệm, chân gác lên những tấm thảm màu rực rỡ. Ngay ở trung tâm và phía bên tay phải của vị chủ nhà là Tyrone!