Chương 76

Vừa nghe đến bốn chữ ” Bồ tát Phổ hiền”, Phu nhân như chợt giác ngộ…hiểu ra tất cả mọi điều…

Bốn chữ danh hiệu ấy ngài nói ra nghe như sét đánh ngang tai, nghe như sấm sét dội thẳng xuống mặt hồ mênh mông vắng lặng. Lại như một giọt nước chạm nhẹ bề mặt căng mỏng của cành sen xanh…

Phu nhân chợt đổ lệ, đấm ngực căm tức đoạn ngã vật cả ra nền cỏ mà than khóc vang trời, lời lẽ bi ai thống khổ kinh động cả chúng sinh linh trong ảo cảnh:

“Trời ơi ta cố gắng đến như thế nào cuối cùng cũng đã nằm trong sự sắp đặt của người cả rồi sao? Tại sao Bồ tát lại dày vò ta đến như thế? Vì sao như vậy?

Bồ tát đã theo sát ta suốt bao nhiêu năm qua, chính người đã biết ta nhắm vào thằng oắt con kia mà độ cho nó từ đầu…thế còn ta? Sao người độ nó chẳng độ cho ta? Ta đã làm gì sai? Ta và người đã có mối quen biết gần hai ngàn năm nay, kể từ khi ta còn là nhện chưa mang thân người, cho tới khi ta đã mang thân ta, ngài vì ta mà thị hiện tới những hai lần, thử hỏi chúng sinh trên đời này có mấy ai được thấy Phổ hiền tận hai lần? vậy mà ngài chỉ vì đứa trẻ này mà nỡ đày đọa ta đến con đường tuyệt vọng… “

Chúng sinh các cõi khi ấy đều hướng vào ta mà nghe nàng nói, đoạn nàng uất ức kể lại:

“…mẹ ta là Nguyễn thị Thư, người huyện Lăng Linh, tỉnh Ninh Bình, cha là Thanh văn Hùng, người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, làm quan hành chính địa phương, sau đó được điều tới Gia Khẩu, tại đó tình cơ quen mẹ, hai người cùng vào đàng trong lập nghiệp ở đất Vĩ an, Gia Khẩu, rồi quen nhau mà yêu thương nhau, cha ta làm tới chức huyện lệnh Gia Khẩu … khi mẹ mới lấy cha không lâu, một đêm nọ mẹ bỗng mơ thấy Bồ tát Phổ hiền cưỡi trên con voi trắng, đến gặp mẹ ta, đoạn phẩy ngón tay vào mẹ ta mà dặn dò: “nếu sinh con gái, nhớ đặt tên Kinh Tâm cho nó”, sau hôm đó thì mẹ mang thai, trong suốt quá trình mang thai, có năm lần đều mơ cùng một giấc mơ, thấy con nhện màu vàng rất đẹp nhảy từ bên ngoài tới bò vào bụng mẹ ta rồi biên mất…cứ vậy đủ tháng đủ năm thì sinh ra ta, không quên lời Bồ tát dạy, liền đặt tên là Thanh Trúc Kinh Tâm…

Từ nhỏ mẹ đã thường đưa ta đi chùa, ta cũng rất thích tới chùa chiền chơi, mẹ yêu lắm, ta càng lớn càng xinh đẹp phi thường, ta vào chùa thì thích nhất là tượng Phổ hiền Bồ tát, thường ngồi dưới tượng mà tụng niệm kinh khá lâu, về sau còn thỉnh cả tượng của Phổ hiền về nhà mà lễ lạy…các kinh sách ta đều thông hiểu rất nhanh, chỉ riêng kinh Phổ hiền Quảng nguyện Vương là chẳng có ai bày cho, nhưng vừa nghe nhắc đến tên là đọc một lèo như nước chảy, người nhà thấy thế đều cho là điều lạ…Năm mười ba tuổi ta đã nhìn thấy người chết đầu tiên, đêm về trong lòng lo sợ bất an, buồn rầu thương khóc cho kẻ chết ấy chẳng ngủ được, đêm hôm sau lại mơ thấy Phổ hiền Bồ tát tới trao cho thanh kiếm ngọc màu trắng, nói rằng dùng kiếm này tên là tuyết thanh Huyền nhân, chém Quỷ đi để cứu cho người sống lại…từ ấy ta tỉnh dậy, giác ngộ đạo Bồ tát, rất siêng năm tìm hiểu sách vở về đạo chú, từ nhỏ đã sớm khai sáng huyền môn, để lộ ra căn cơ thâm sâu vô cùng tận…học theo phép tu Bồ tát ba la mật mà thành…người trong nhà biết thế đều sợ, cứ giấu rịt ta trong nhà chẳng dám cho ra đường, vì sợ tin ấy lan truyền ra thì hại ta mất mạng, bởi vào thời của ta, pháp sư bị xem là phù thủy, đặc biệt là phụ nữ…ngay khi ta biết đi đã sớm sớm đều lên chùa dâng hoa tươi cho chư Phật, tâm thanh tịnh mát mẻ, do đó dẫn tới Thần trí tinh tấn, quả tốt hiện lên mặt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, ta càng lớn lên thì càng đẹp ra đến kì lạ, dù có đi nắng cỡ nào chỉ cần vào nhà chốc lát, mặt liền trắng lại, mắt biếc mày tằm, mình trúc dáng liễu, rồi cũng tuổi mười sáu trăng tròn bao người say mê, nhưng ta chẳng vừa lòng ai, bỗng một ngày kia đứng trên bậu cửa sổ ngắm xuống phố xá nhộn nhịp người qua, ta bỗng nhìn thấy chàng…chàng trông quê mùa hèn hạ, lôi thôi lếch thếch trên đường, cũng chỉ như bao kẻ hạ lưu bình thường, thế nhưng bỗng khi đi qua cửa sổ nơi ta đang đứng, chàng bỗng ngước mặt lên nhìn ta mà mỉm cười…nụ cười ấy đã làm trái tim ta xao xuyến…rồi chàng cứ thế mà đi, ta lân la dò hỏi mãi mới hay chàng họ thiên, tên minh, quê quán đâu chẳng rõ, nay tới gia khẩu làm thuê kiếm tiền nuôi thân, không cha không mẹ không cửa không nhà, lang thang nay đây mai đó…ta yêu chàng từ dạo ấy, dù nhà ngăn cấm thế nào cũng quyết tới cho bằng được, rồi cuối cùng phải từ cha từ mẹ, bỏ xứ mà đi theo chàng chịu khổ dặm trường lênh đênh nay đây mai đó, nhưng ta chẳng thấy khổ cực gì mà vẫn cam lòng, chỉ cần được bên cạnh hầu hạ chàng, nâng khăn sửa túi cho chàng là ta đã mãn nguyện lắm, chàng cũng rất yêu chiều ta, cuộc sống lứa đôi hạnh phúc viên mãn đẹp đẽ như tranh trong cảnh bần hàn…

Rồi chàng bước chân vào binh đạo, chàng có bản lĩnh hơn người nên khẳng định được mình rất nhanh, thế rồi giặc Bắc kéo vào xâm lược, chàng liên ghi danh tòng quân, chàng vẫn thường dạy ta: “Là nam nhi trong thiên Hạ, dù chết vì quốc gia xã tắc cũng là điều nên”. Ta phận nữ nhi sao dám cản chàng ra nơi tiền tuyến mà cướp ấn nguyên nhung, dù yêu thương đến mấy cũng đành nén nhớ nhung mà ở nhà chờ, rồi chàng làm nên thân danh vọng, tay trắng mà dựng lên cơ đồ, làm đến thiên tướng quân được phong viễn hầu, lãnh vạn hộ ấp đất đai, cuộc sống phú quý vinh gia, cứ ngỡ rằng đời ta thế là viên mãn, thì phận ta còn mong gì hơn…

Vậy mà ngờ đâu trời chẳng thương cho phận đàn bà, ta đã mong cuộc sống an ổn vậy nhưng nào có được? Chàng đánh nhau nơi chiến trận triền miên, ta ở nhà phòng đơn gối chiếc, cửa loan vắng bóng, thân thể con gái đến độ đôi mươi cứ vậy mà mòn mỏi đợi chờ, hoa tàn cỏ úa, khô héo rục thân nơi buồng the…cuối cùng chàng bị người ta hại, một đi chẳng trở về, tử trận nơi sa trường, trái tim ta từ đó tan nát…

Vào đêm chàng mất, ta mơ thấy chàng về, toàn thân đẫm máu, chàng nói với ta rằng bị Vua bức tử, có nạn gϊếŧ ba họ, mau mau trốn đi kẻo vạ đến thân, chớ có đưa ai theo…rồi lại chỉ nắm tay ân cần mà dặn một câu:

“Anh chết rồi nhưng bọn nó còn không tha, còn dùng pháp sư, gọi ra Bát bộ bắt lấy hồn tướng của anh về giam cầm trong lăng, làm lễ để biến anh thành Thần canh lăng cho chúng nó, anh chẳng có mẹ cha con cái, chết đi chẳng tiếc, chỉ thương em vì anh mà chịu khổ quá lâu, nay về mộng cho em hay mà chạy trốn đi, anh còn là Thần thì không phải đi đầu thai, sẽ không quên mất em được, chỉ cần em còn sống, anh sẽ cố thoát ra mà về tìm.”

…Nói rồi biến mất. Ta choàng tỉnh giấc đã thấy lửa cháy ngút trời, còn chưa hiểu điều gì đã thấy thủ Hạ thân tín của chồng ta vào trong phòng ngủ mà bế xốc ta đi, mặc ta kêu gào thế nào người ấy cũng lôi ta ra ngựa, dùng sức nam nhân mà trói ta lại, đoạn cứ thế thúc ngựa chạy xuyên ngày đêm, cứ vậy rất lâu, rất xa người ấy mới dừng lại, cởi trói cho ta mà thưa chuyện…

Người ấy quỳ mà xin ta tha tội chết, đoạn kể lại việc chỉ vì sớ xin phong hầu của chồng ta, lại bị kẻ nịnh Thần đem lời gièm pha mà Vua nghi cho chồng ta phản, đêm ấy gửi cho thuốc độc bắt uống, chồng ta chết đi rồi lại sai các pháp sư trấn yểm hồn chồng ta vào nơi lăng mộ tôn thất, bắt quy phục làm Thần bảo vệ cho lăng tẩm của họ Vua, rồi sai người ập vào thành của chồng ta mà bắt gϊếŧ cẩ ba họ, chồng ta khi đi chẳng dặn dò gì nhiều, chỉ dặn thủ hạ giỏi nhất về đưa mình ta đi trốn, nói đoạn chỉ sợ ta quyến luyến các gia quyến khác mà không chịu đi nên dặn riêng kẻ đó phải bức ép cho ta đi như thế…

Sau này ta tìm hiểu ra thì biết là do nhà Vua nghi kị, sai pháp sư đi gϊếŧ chồng ta, pháp sư ấy đạo thuật cao minh, luyện nuôi Bát bộ mà hại chồng ta, sau cùng giở mưu hèn kế bẩn mà ép chồng ta vào con đường chết, lại sai Bát bộ tám con trói lấy hồn chồng ta mà mang về kinh thành… một mình thân gái dặm trường, ta lại phải lên đường trốn chạy sự truy sát, vất vả vô kể…

Nạn binh đao nổ ra triền miên khắp nơi không dứt, thổ phỉ cướp bóc quan quân hoành hành, yêu ma Quỷ tróc ở khắp mọi nơi, bấy giờ căn cơ ngày xưa mới phát, ta luyện được ra xích Kim lưu, lại có kiếm Tuyết thanh, về sau còn được cao nhân chỉ cho cách dùng cung Thanh tẩy, cứ vậy mà đi lang thang khắp nơi, đi tới đâu thì diệt tà ma, trấn giữ an trạch cho đất ở đó nên người đời mến yêu mà gọi ta bằng nhiều danh cao quý, Kinh Tâm tiên nữ, Thánh nữ Kinh Tâm, Thiên Phu nhân, Thánh Mẫu Kinh Tâm…ta cứ vậy rong ruổi dặm trường, lập ra lời thề bắt bằng được đủ tám con Bát bộ, rồi dùng chúng làm lễ tế, kéo quân vào lăng tẩm mà cứu được hồn chồng ta nơi lăng tẩm ra, ta lại phải gϊếŧ hết bọn Vua Lăng Chính, bọn thái giám Từ Sử, bọn loạn tướng gian Thần Ngu Hiên, Vĩnh Cơ, Văn Phát, những kẻ đã đẩy chồng ta vào con đường chết, giờ đây chúng chết rồi ta lại phải quật mộ chúng nó ra mà trấn yểm chúng nghìn đời chẳng được tái sinh mới rửa được hận diệt tộc nhà ta, hận gϊếŧ chồng ta…”

Vậy là chỉ vì một câu nói của người xưa:

“…chỉ cần em còn sống, anh sẽ về gặp em…”

…mà Phu nhân một lần nữa, lại chìm vào ác đạo…

Phu nhân lại khóc mà kể nữa:

“…rồi ta cứ vậy lang thang rong ruổi khắp chốn, có pháp khí trong tay, căn cơ tu luyện ngày càng dày, lần lần mà bắt được hết bát bộ thần, ta định mang chúng ngươi đi về kinh thành, tìm tới lăng tẩm của lăng chính mà rửa hận nhưng dọc đường mắc bệnh mà qua đời, vậy là thù chồng chưa trả được, đành ôm nỗi đau đớn oán hờn xuống ba tấc đất…ta nào có thù hằn bát bộ các ngươi, ta biết rõ quỷ thần chỉ do người sai khiến, nên có hận ta hận bọn lăng chính, vĩnh cơ, kẻ đã thao túng các ngươi hành ác…

Trước khi ta tịch, lại nằm mộng thấy Bồ tát Phổ hiền đến gặp lần thứ hai, bồ tát dạy cho ta một phép gọi là “tách hồn”, A-lại-da thức của ta theo phép đó mà tách ra làm hai, vậy xem như trong hết chúng sinh pháp giới, chỉ riêng Kinh Tâm ta đây, là có phép ấy, có tới hai A-lại-da thức, có chín thức cả thảy, sau đó được Bồ tát căn dặn, ta liền niệm phép xuất hồn, xuất một hồn ra mà nhập vào kiếm Tuyết thanh, ta cũng đặt phép di lên trên tám mảnh hồn còn lại, để nó có lạc mất ta vẫn tìm lại về…

…rồi ta cứ vậy mà qua đời…

…lời Bồ tát Phổ hiền nói chẳng hề sai, chẳng còn thân người nữa nên đạo hạnh mất đi nhiều, Bát bộ các người lại nhân lúc ta không còn thân người, đã suy yếu đi, chẳng dùng được pháp khí, mà hợp lại đánh ta, lại gϊếŧ ta thêm lần nữa, Bát bộ các ngươi chia nhau xâu xé ăn hết các thức của ta, mỗi con giữ một thức ta, riêng Thiên nhân giữ A-lại-da thức thứ hai của ta, do vậy nên có cách cảm đặc biệt với ta, nhưng thức ấy chỉ là một nửa thức, do đó nó hiện ra cần có nghi lễ, mà lại phải làm trong mộ ta… rồi sau đó các ngươi cùng bỏ xác ta lại dưới nền đất lạnh mà con nào đi về cõi nấy…

Nhưng các người lại quá xem thường ta rồi, ta là linh thú đắc đạo cuối cùng của thời hành pháp, được đích thân Bồ tát Phổ hiền chứng cho… căn cơ của ta chúng quỷ thần Bát bộ các người nào nhìn thấu được?

Ta đã đánh dấu phép lên đầy đủ các thức ấy rồi, chỉ cần con nào nuốt thức của ta, thì nó trốn đến nơi cùng trời cuối đất ta cũng tìm ra mà tróc cho kì được…vậy là A-lại-da thức còn lại của ta xuất ra từ kiếm, lúc ấy chỉ còn có một hồn, lại âm thầm nằm trong mộ mà tu dưỡng rèn luyện, đắc đạo lại rất nhanh vì siêng niệm chú Phổ hiền, rồi mở được cảnh giới xích Kim lưu, bấy giờ ta mới dùng phép Di, hiện ra mà bắt lấy từng con, tới gặp con nào, ta lại bày mưu ta gϊếŧ nó đi, đoạt lại thức ta, rồi còn bắt luôn lấy thức nó trói vào dây xích mang về, nhưng thời gian đã lâu, bát bộ đã dùng thức ta mà tu luyện để đắc đạo, nên thức ta với thức chúng nó dần hòa làm một, một chia thành tám, tám trở về một, sai khác cũng chẳng nhiều…Vậy là ta lại tróc đủ lại Bát bộ tám con, mang chúng nó về mà nuôi dưỡng, chờ dịp gặp người hội đủ căn cơ trí dũng mà nhập xác, rồi tiếp tục tìm về mà trả thù xưa…

Nhân dịp đức thánh trần đi qua nơi mộ, ta đã muốn chiếm lấy thân nhưng kẻ đó chẳng phải người thường, đã chứng được quả Thánh, pháp lực vô biên, quanh hắn thần binh trùng trùng, ta chủ quan khinh xuất bị hắn tróc lấy, nhưng bấy giờ dân chúng nơi ấy đều tới mà cầu xin hưng đạo vương đừng quật mồ ta lên, bởi những ân đức ta dành cho họ khi còn sống đã thấm đẫm…hắn cũng thương tình mà chẳng truy cứu, nhưng hắn biết bát bộ đã ăn nhập tàng ta vẫn còn gào thét bên trong, nên vẫn không thể tha, liền lập ra phong ấn, cho xây lại hầm mộ này rồi yểm ta xuống dưới, lại cho xây nên chùa Thanh Trúc, muốn mượn oai lực thần phật trong chùa mà giam cầm ta…

Vậy là một lần nữa uất khí lại nghẹn trời, ta nghìn năm kiên trì chịu đựng, làm thân trâu chó đủ qua nghìn kiếp cho người hành hạ chỉ để được bên chàng, hạnh phúc chẳng tày gang lại đã âm dương cách biệt, ta lại dùng cả kiếp người mà đi rửa hận cho chàng, nhưng đại nghĩa chẳng thành đã hóa ra ma, thọ chỉ ba mốt tuổi dương mà quá nửa là sống trong đau khổ, thành ma quỷ rồi tranh đấu với Bát bộ một sống một còn, bao nhiêu khổ ải mới thu lại được chúng lại gặp ngay họa phong ấn, ta nằm dưới hầm mộ sâu, hồn phách ngày ngày đấu tranh thu phục hồn Bát bộ, bên ngoài lại bị xiềng xích gô trói, bùa thiêng bủa vây, linh thú trấn yểm trùng trùng, đau đớn khốn khổ không tài nào kể xiết, lại kiên trì chịu đựng khổ ải dưới mồ này suốt bảy trăm năm mới được sư Nhất Nguyên thả ra, lại lao tâm khổ tứ mà lấy cho được thân Huyền nhân kia để tế lễ, vẫn mong tới nơi lăng tẩm Lăng Chính mà cứu chồng ra, mong được gặp người lần cuối rồi sẽ về ngục mà chịu khổ sau này…thế mà nay cơ sự thành ra thế này…trời ơi thần linh, pháp sư, hộ pháp, loài người, thậm chí cả bồ tát các người cùng bủa vây mà đánh ta, chồng ta chết mình thân con gái lại bị ức hϊếp như thế, chịu nỗi khổ nhục thế này ư?

…chàng ơi giờ này chàng đang ở đâu? Có hay cho lòng em…

…em nhớ anh nhiều lắm, nhớ muốn xé gan nát ruột, muốn chết đi trăm ngàn lần cho hết thống khổ nhưng nghĩ đến chàng em lại nuốt nước mắt vào trong mà nhẫn nhục vượt qua, chịu đựng bao đau đớn dày vò…

Chàng đang ở nơi nào? Em nhớ chàng nhiều lắm…”

Nói đoạn Phu nhân ngồi bệt xuống cỏ mà khóc tức tưởi như đứa trẻ thơ, đôi mắt biếc lệ nhòa ướt đẫm mi liễu, khuôn mặt ngọc nhăn nhó khổ sở đau đớn, đôi tay phu nhân cứ đấm vào ngực mà gào, khóc cho tới chảy cả máu mắt…

Thật là,

Một thế giới huyền ảo

Một sức mạnh phi thường

Một số phận đau thương

Một linh hồn cô độc…

Bát bộ và Đại trí bấy giờ ở trong ảo cảnh của bồ tát đã lâu, thần thức đều khôi phục đủ cả…

Bát bộ nhìn thấy cảnh đó, con nào con nấy đều gào lên khóc tức tưởi, rồi chồm cả tới Phu Nhân, rắn Ma-hầu-la-già và Rồng bò vào nằm gọn trong lòng Phu Nhân, Càn-thát-bà và Khẩn-na-la thì quỳ phục xuống cạnh Phu Nhân, hai con hai bên lấy cả hay tay mà nâng lấy tay ngọc của Phu Nhân áp lên má chúng nó âu yếm, Thiên nhân và A -tu-la quỳ xuống khóc tức tưởi hôn lên bàn chân trần của Phu Nhân, Dạ xoa và Ca-lâu-la vòng ra sau lưng Phu Nhân, con thì choàng cánh ôm lấy Phu Nhân chở che cho Phu Nhân, con thì dang rộng đôi tay quỷ mà ôm vòng qua ngực Phu Nhân bảo vệ…

Các chúng vong linh linh thú nhìn thấy cảnh ấy đều òa lên khóc.

Đại trí khẽ nhắm đôi mắt lại, chắp tay mà niệm:

“Thiện tai, thiện tai…”

Hạ chẳng nói gì, chỉ khẽ cúi mắt xuống, rồi chợt nhận ra vẫn là đệ tử Phật môn, lửa hận tuy lớn thiêu đốt cả tâm can nhưng nước mát từ bi vẫn chảy trong tim trong máu, là nguồn nước mát xoa dịu hận thù…uất thù bỗng nhiên tan cả, chỉ còn thấy tự thương lấy phận mình mà bỗng nhiên nước mắt tuôn rơi lã chã, đoạn kín đáo lấy tay lau đi chẳng để ai trông lấy lúc yếu mềm.

Phương từ nãy đến giờ vẫn ngồi ngay cạnh Phu Nhân, đoạn vô thức nâng tay lên, khẽ vuốt nhẹ mái tóc huyền của Phu Nhân…

Phu Nhân chợt nín bặt tiếng khóc, sững sờ mở đôi mắt biếc to tròn nhìn Phương …

Bát bộ nhận ra hành động của Phương, con nào con nấy ngẩng đầu lên, nhe răng dẩu mỏ, xù lông xù cánh nhìn Phương đề phòng…

Không khí bỗng như đóng băng, tất cả chúng sinh thần thú nơi ảo cảnh đều nín lặng quan sát, tịnh im phăng phắc chẳng một tiếng động…

…bỗng nhiên khi ấy, Phương mỉm cười với Phu Nhân…

Phương nói dịu dàng:

“Phu Nhân thù gϊếŧ mẹ tôi, hại tôi biết bao lần, gây cho tôi biết bao đau khổ, nhưng thôi nay tôi cho qua cả, tôi cũng thương Phu Nhân lắm…”

Rồi sau lời tha thứ ấy, trời đất như vỡ tan ra, Phu Nhân lại òa lên mà khóc, đoạn ôm chầm lấy Phương , gục đầu vào ngực Phương mà khóc tức tưởi…

Phổ hiền bồ tát ngồi trên cao khẽ mỉm cười…

Ngài nhìn Kinh Tâm khóc, chợt niệm cũ trở về, chợt nhớ lại hình ảnh cô bé Kinh Tâm hồn nhiên ngày nào…

Trước khi lấy chồng, ngày nào tiểu thư Kinh Tâm cũng theo mẹ lên chùa dâng hoa, nhìn vào tượng ngài mà cười…

Sau khi lấy chồng, thỉnh thoảng Phu Nhân Kinh Tâm vẫn còn lên chùa, thắp hương lạy ngài mà cầu bình an cho chồng…

Sau khi chồng chết, Pháp sư Kinh Tâm chẳng còn lên chùa nữa…

Thật là,

Nhịn thống khổ, nhẫn nhục đã ngàn thu

Oán báo oán, chất chồng sâu vạn kiếp.