Chương 20

Chương 20.

Hạ ho ra mấy ngụm nước lớn, sặc sụa rồi dần hồi tỉnh.

Mắt mở ra từ từ, Hạ nhìn thấy có một bóng người đang cúi xuống mà hô hấp nhân tạo cho mình, thần thức giác quan đã lơ mơ quay trở lại, Hạ lại ho thêm mấy tiếng nữa.

Rồi người đó từ dìu Hạ ngồi dậy.

Đây là đâu? Tôi còn sống hay tôi đã chết?

Hạ lại láo liên đảo mắt lần nữa, rồi bỗng thấy rất lạnh, người cậu ướt nhẹp, run lên bần bật.

Hóa ra cậu đang ngồi trên bờ sông, khi Hạ đã dần chìm nghỉm thì có một người đàn ông đã nhìn thấy cậu và lao ngay xuống sông mà cứu lên bờ, tưởng như Hạ đã chết nhưng người đó không từ bỏ mà lại ra sức cấp cứu cho cậu, tính từ lúc đó tới giờ đã hơn hai mươi phút đồng hồ trôi qua.

Hạ thấy như có thứ gì vướng vướng nơi gáy liền lần tay rời về sau, thì thấy gì như mảnh giấy, cậu giật ra giơ lên dưới ánh trăng xem, giấy màu vàng, trên giấy có vẽ nhiều chữ và hình kì dị mà cậu không hiểu, rồi Hạ lại nhìn người đàn ông kia, ông ấy cũng đã ướt nhẹp hết cả, nhưng khuôn mặt nhìn lại như sáng rõ giữa đêm. Trông người đó khuôn mặt chữ điền vuông vức, râu tóc đều màu đen, để dài trông kì dị, râu dài tới hầu, tóc thì dài ngang vai, tai to, vành tai cong lên, hai lỗ mũi nở to, môi dày mà thâm, đôi mắt to, ánh nhìn sáng rất lạ, người đó mặc một áo dài màu trắng ướt nhẹp, tay áo rất rộng, chùng xuống, thân áo dài ngang đùi, trên ngực áo lại có một hình tròn màu đen, đường kính cỡ mười phân, mặc quần màu đen, ống quần chùng, dài xuống, đi đôi dép gỗ có đế dép cao tới chừng năm phân.

“may mà vẫn sống.”- người đó cất ra tiếng nói nhẹ nhõm, giọng nói trầm ấm như chuông đồng.

“bác đã cứu mạng cháu…”- Hạ nắm lấy tay người ấy mà nói khẽ, giọng hãy vẫn còn yếu lắm.

“lá bùa này tôi vẽ để nối thông kinh mạch, may mà vẫn công hiệu, để chậm thêm vài phút não phổi đều chết thì chắc có trời cứu được.”- người đó đứng dậy nói.

Người ấy vừa đứng dậy thì Hạ thấy cao lớn dị thường, dễ phải cao đến chừng hai mét, uy nghi kì lạ, quần áo ướt hết dính bám vào thân để lộ vóc người lực lưỡng, thể hình cân đối, bờ vai lại rất rộng trông như hùm như beo…

“bác là…”- Hạ thoáng nghi ngại hỏi.

“tôi đây theo đạo đã lâu, nay tên cũng không còn dùng nữa, mà dùng đạo hiệu là Minh Tâm, giờ làm nghề đi xem địa lý* kiếm cơm.”

(*thầy phong thủy)

Nói đoạn chìa tay ra kéo Hạ đứng thẳng lên.

“cậu thấy trong người thế nào?”- đạo sĩ hỏi.

“cháu thấy ổn rồi.”

“khúc sông này có tà khí, ban đêm chẳng nên đi lại qua đây.”-đạo sĩ lại nói.

Hạ lặng im không đáp, nhìn xuống dưới dòng sông, mặt sông nay đã lặng im, không còn sóng dữ, cây cối cũng im lìm, một cơn gió thoáng qua cũng không thấy, đêm mùa Hạ không khí oi ngột. Hạ lại ngước lên nhìn cầu, thấy cầu vẫn im ắng.

Bấy giờ Hạ mới thấy nóng bức trong người, liền lột phăng áo ra, vắt cho khô nước đi rồi lấy lau người lau đầu cho khô.

Bất chợt lọt vào tầm mắt ở xa, Hạ nhìn thấy một đốm lửa sáng lập lòe cách đó chừng độ bốn mươi mét, liền quay sang vị đạo sĩ mà nói:

“cái gì kia? Ma chăng?”

“không đâu.”

Rồi đạo sĩ Minh Tâm giảng giải cho cậu.



Hóa ra đạo sĩ này là người tu luyện trên núi đã lâu, giờ xuất sơn đi lang thang xem địa lý phong thủy, xem vùng đất nào tốt vượng thì mách cho người ta làm ăn, nơi nào đất xấu có ma quỷ thì liền dùng thần chú gọi nó lên, rồi lấy kiếm chém vào mà trừ nó đi, không trừ được nó thì dùng phép mà trấn yểm, cứ thế mà đi lang thang bốn biển là nhà, nơi đâu nhờ coi việc thì đến, lấy thù lao xong hoặc nhiều thì mang cho trẻ em lang thang, ăn mày ăn xin cơ nhỡ, hoặc nhà chủ khó khăn thì lại chỉ xin lộ phí mang mà đi đường, cứ vậy đã nhiều năm nay, chẳng nơi nào trên đất nước mà không ghé qua. nhân dịp dăm hôm trước đi qua thành phố Nam Thuận, thì hôm trước nghe trên sông này lại có đứa bé chết đuối, người trong vùng biết tiếng liền mời thầy này đến sông coi cho.

Đạo sĩ ngắm nghía sông núi ở đây hồi lâu, rồi lập đàn mà cầu, ngồi im đến cả tiếng chẳng nói năng gì, rồi thắp hương khấn vái, cầm kiếm gỗ đào mà chém loạn xạ, đoạn lại vẽ bùa chú đốt lên mà rải xuống sông, rồi nói với người dân khu Bắc rằng sông này có thủy thần điều khiển ma quỷ, chứ không phải chỉ người chết đuối bình thường, không thể trừ đi được, nay chỉ biết lập bàn thờ, chờ chọn ngày tốt giờ tốt sẽ quay lại động thổ mà lập miếu cúng cho các vong hồn chết dưới sông này, cúng cho thủy thần thì về sau sẽ không còn tai nạn nữa, vong hồn đứa trẻ chết đuối dưới này khi đó cũng tự khắc mà được thần tha cho, về để độ sinh. nói đoạn lại đi vòng quanh địa phận khúc sông và cầu, xem xét rất kỹ, rồi dừng lại ở một hốc cây dừa to bên chân cầu mà nói người dân lập bàn thờ đặt ở đây, bàn thờ đó như sau: gỗ làm bàn thờ bằng gỗ xoan đào, bàn thờ dài ba mươi phân, cao năm mươi phân, rộng hai mươi phân, trên mặt bàn thờ bày hương hoa ngũ quả, lại bày ngựa giấy, voi giấy màu hồng đào, rồi thỉnh về một bán nhang to, ba ly rượu nhỏ bày biện đàng hoàng, Hạ bàn thờ xong thì đạo sĩ vẽ ra một lá bùa, lá bùa màu đỏ, to cỡ bàn tay, trên vẽ hình một con rồng bằng mực chu sa màu xanh, hai góc bùa vẽ hai thanh đao đặt ngang lưng rồng, và vẽ thêm thần chú, rồi dùng keo mà dán chặt nó vào sâu trong hốc cây dừa, làm thêm lễ khấn vái xong xuôi chỉ trong một buổi, rồi ung dung cầm kiếm ra đi.

Thật là,

Dị tướng ắt kỳ nhân

Đạo pháp sánh quỷ thần

Lang bạt mong độ thế

Sống cuộc sống gian truân

Đi được cũng khá xa, đã sang đến tỉnh khác, thì lại nghe trong lòng bất an, ruột cứ nóng cồn cào, kiếm gỗ bằng đào để trong bao mang bên mình cứ rung lên không ngừng, nên đành tất tả quay lại sông này, tối nay thì đến nơi. từ xa nhìn lại nơi gốc dừa thì thấy oán khí vang trời, nhìn xuống lòng sông thì mặt sông gầm gào, sát khí bốc lên che phủ cả xung quanh bán kính tới ba mươi mét, vậy là biết có chuyện chẳng lành, đạo sĩ lại gần xem thì bàn thờ không còn đâu nữa, trong gốc dừa lại lấp đầy đá cuội đá hộc, đạo sĩ thất kinh, chân tay rụng rời hồn vía lên mây, vội vàng lôi hết đá ra khỏi hốc dừa, thì thấy đạo bùa chú đá chẳng còn đâu nữa… đạo sĩ ngước mặt lên trời mà thở dài, rồi đành im lặng chờ đợi. Đêm nay chọn đêm có trăng rằm sáng, chờ tới giờ Tý, đạo sĩ đi quanh khúc sông một hồi, chợt nhìn ra một nơi, đất còn chút vượng khí, sáng lên trong đêm, cách nơi gốc dừa độ chừng bốn mươi mét, nên lại lần bụi lau bờ sông mà mò đến, rồi ngồi đây lập đàn tràng, một mình trong đêm khấn vái, nói đoạn lại đốt hương đốt bùa, sau đó thắp mười tám cây nến xếp thành hình sao La Hầu, rồi vẽ một đạo bùa, trong bùa có hình một vị tướng quân, cưỡi con ngựa lớn, tay cầm thanh đao to, thắp hương khấn vái, rồi cầm kiếm vẽ lên không trung chữ “ thiên minh ” tức thì hào quang tỏa ra muôn nơi quanh lá bùa, sáng cả bờ sông, rồi từ lá bùa hiện ra một vị tướng quân, vị tướng đó uy nghi rực rỡ, râu dài tới bụng, mặt đỏ phừng phừng, đầu đội mũ miện dát vàng, thân mang giáp trụ màu xanh, đeo dai lưng màu đỏ tía, tay cầm thanh đao rất dài, trên thân đao vẽ hình con rồng uốn quanh, cưỡi trên con ngựa trắng rất đẹp, bốn chân ngựa đều có lửa phừng phừng.

Thật là,

Tướng trời oai nghi lạ

Vì đạo mà hiện thân

Dùng đức mà giữ cõi

Phù độ cho người trần.

Đạo sĩ liền nhìn vị tướng mà khấn, lời khấn rất dài, đại để như sau: “nay bần đạo dùng tài mọn gọi lên thiên tả tướng quân, mong nhờ oai đức của ngài mà giữ cho khúc sông này tạm yên, chờ dân đen nơi đây lập xong miếu lớn thờ phụng cho thủy thần thì mời ngài về trời.”

Khấn xong đoạn dập đầu lạy ba lạy, tức thì vị thần tướng nhà trời kia tan đi, lá bùa còn sáng thêm một hồi rồi tắt, rồi đạo sĩ lấy kiếm cắm lên lá bùa, ghim nó vào một gốc cây, rồi lấy lau sậy bên bờ sông mà phủ lên, xong xuôi công việc đang sắp xếp đàn tràng thì bất ngờ có tiếng tàu đêm vang lên, rồi chợt lá bùa đang che phủ dưới cây sáng lên, thần tướng nọ từ lá bùa bay ra, chỉ đao về phía cây cầu.



Đạo sĩ hướng mắt về cây cầu nhìn, thì bỗng thấy như có bóng người trên cầu rơi xuống, nghe “ùm” một tiếng, tức thì vứt hết cả nghiên bút đàn tràng mà tất tả chạy lại cứu người, chạy một quãng xa muốn hụt hơi, đứng sát chân cầu nhìn ra, thì thấy người bị rớt xuống sông kia có vẻ đã mệt lả, tay chân khoắng loạn xạ mà rất yếu, rồi đạo sĩ thất kinh nhìn thấy trên đầu người ấy có nhiều bóng đen bay lởn vởn, rồi những bóng đen dưới mặt sông cứ thế ngoi lên mà bu lên đầu người chết đuối, nhưng rồi bỗng trong tầng không thấy hiện ra ba bóng đen rất lớn, sau lộ rõ hình hài là ba bóng quỷ…

Ba quỷ đó như sau, con thứ nhất là Tột khốc, dung mạo to lớn, đầu ngựa mình người, tay cầm cái chùy to có nhiều răng, tay kia cầm sợi xích sắt lớn, con thứ hai là quỷ La sát*, người nhỏ mà dài, không thấy rõ tay chân và khuôn mặt, chỉ thấy khoác một áo chùng dài màu đen, áo có mũ trùm kín lên cả đầu, nhìn được thấy đôi mắt sáng quắc, tay quỷ đó cầm cái bao to màu bạc, tay kia lại cầm một cái thòng lọng dài, con thứ ba là quỷ Vô lậu*, quỷ này thân chỉ là một đám khói đen, không nhìn rõ ra hình, chỉ thấy được đầu là một sọ trắng, trên sọ lại lưa thưa vài sợi tóc màu đỏ, một tay quỷ cầm thanh kiếm màu vàng dài, tay kia cầm một lá bùa màu vàng.

(* La sát: quỷ chuyên bắt trẻ con, có phép biến thân hóa được nhiều hình dạng; *Vô lậu: quỷ gây ra ảo giác, có phép vô niệm ý xuất hiện chỉ trong một ý nghĩ.)

…rồi chợt thấy ba quỷ đó chẳng nói chẳng rằng mà vung pháp khí ra, quỷ Tột khốc chỉ vung chùy một nhát, tức thì những bóng đen yêu ma dưới lòng sông vừa bay lên lập tức tan ra hết, lại chui xuống lòng sông, sóng dưới sông đánh cuồn cuộn.

Lúc này vị thần tướng cưỡi con ngựa trắng hiện ra, sáng lòa cả một vùng, tức thì lòng sông im ắng lại.

Đạo sĩ hoàn hồn, chẳng kịp cởi đồ mà nhảy ngay xuống sông, nhờ ánh hào quang từ thần tướng tỏa ra mà cứ thế bơi thẳng ra chỗ người bị nạn. ba bóng quỷ thấy có người bơi ra cứu, biết số mạng người này lúc này chưa tận, thì cứ thế mà tan đi. Bấy giờ người ấy đã chìm hẳn xuống, đạo sĩ vội lẩm bẩm niệm phép bức thủy* rồi lặn xuống, chỉ thoáng chốc đã nắm được lấy tay người kia, rồi cứ thế mà bơi dìu vào bờ.

(*hành giả luyện được phép này có thể nhịn thở dưới nước.)

Hóa ra là một đứa bé trai, đưa Vào được đến bờ thấy chân tay đã lạnh cả, vội vàng dò mạch tượng thì thấy lúc ẩn lúc hiện, có còn sống sợ cũng chết não mất thôi…tức thì đạo sĩ rút ngay lá bùa thiên hướng âm chi chú* cất trong áo ra đã ướt sũng, dán vào sau gáy đứa trẻ, rồi cứ thế vừa miệng vừa tay mà hô hấp cho nó thở lại…

(*thần chú trị thương do tai nạn)



Nói đến đây liền quay sang Hạ mà rằng:

“ánh sáng nơi kia cậu đang thấy là của mười tám ngọn nến thắp lên để gọi thần, cậu sống được cũng nhờ thần linh thương xót, lại mà khấn tạ đi thôi.”

Thật là,

Quỷ hiện ra, người tưởng chừng tận mạng

Ngắm địa linh, thầy phong thủy cứu người.

Hết chương 20.

Hết phần 1.