Chương 14: Phật cùng Bồ tát

- Thất vọng không?

Giọng Mộ truyền tới, vang với tiếng bước chân đều đều trong bất tận, khiến không khí tràn ngập một mùi lạnh lẽo cùng nấm mốc. Lão trụ trì nhìn những phật điện nguy nga chỉ còn lại những những trụ chống, lại quay nhìn những cây bồ đề giờ trơ trọi cành khô, sau đó cúi đầu niệm một câu phật hiệu:

- A di đà phật! Sinh diệt như phương hoa, có nở có tàn. Không trách được không trách được.

Nghe vậy, Mộ thoáng nhìn sâu lão hòa thượng này, sau đó đưa tay chỉ ra quang cảnh đổ nát được mặt.

- Nơi này là phật cư, nơi chúng phật cư ngụ. Dựa vào sự tàn phá thì nơi này đã bị hủy diệt gần vạn năm rồi.

- Phật cư?

Lão trụ trì lẩm bẩm, có chút không thể tin nhìn chốn chốn hoang tàn lại là nơi chúng phật sinh sống. Nếu là nơi phật cư, tại sao chỉ còn lại tường cũ cùng rêu phong, chốc chốc lại những tràn gió lạnh thổi rét mướt tâm hồn? Nếu là nơi phật ngụ, vậy thì phật đâu mà để cho phật sơn tan hoang, để huy hoàng tan theo gió?

Nhìn những vết nứt như người xô ngã, những phật tượng bị chém ngang đầy, những hộ pháp bị bóp nát thân, lão như người mất hồn thì thầm:

- Ai là người phá hủy nơi này?

- Không phải người. Nếu ta đoán không nhầm, là bồ tát.

- Bồ tát?

Mộ nhìn khuôn mặt đờ đẫn của lão trụ trì, cười òa lên, sau đó cẩn thận giải thích:

- Bồ tát ở đây không phải là đạt cảnh trong phật pháp, mà là một loại dị thường. Và phật sống ở nơi này cũng không phải là người giác ngộ, mà đơn giản là một chủng loài có “tính” cao mà thôi. Thật ra, nếu không phải bồ tát phá hủy nơi này thì dù trăm vạn năm, phật tính nơi đây cũng không cách nào phá diệt gần như triệt để như bây giờ rồi.

Mộ đứng yên lại, chờ lão tăng đi song song với mình, rồi mới từ tốn nói tiếp.

- Phật có kể, vạn vật bình đẳng. Nhưng lão có biết, vạn năm trước đây người không có tư cách để nói câu đó, chỉ có những chủng loài siêu nhiên mới đủ tự tin để biện giải. Dần dần năm tháng trôi qua, nhân loại dần dần phát triển áp đảo những chủng loài khác, thông qua học hỏi để bù lại những khuyết điểm của mình. Trong số đó, những người đầu tiên giác ngộ cảnh giới phật, kết hợp với những chiêm nghiệm của bản thân, tạo thành đường đi cho những người sau này, được người đời tôn một chữ “sư”. Chỉ là cái gì cũng có cái giá của nó. Người vốn không sinh ra để thành phật, cho nên trong quá trình tự tỉnh, người thông qua loại bỏ niệm để tạo tuệ, khiến tuệ sinh ra nhưng cũng khiến niệm tồn tại. Khi niệm lớn mạnh đến một mức độ nào đó thì niệm sinh ra làm dị thường, tôn là bồ tát.

Tới đây, Mộ mỉa mai nhìn lão tăng, cười lớn mà rằng:

- Nói không ngoa thì, chính người đã phá hủy nơi phật cư này.

- A di đà phật! Đó là cái giá cho việc giác ngộ, thành kiếp cho vòng luân hồi. Phật địa có kiếp nên sinh ra bồ tát, giác ngộ không đủ thì chịu nghiệp hỏa là điều không thể tránh khỏi.

Lão trụ trì bình tĩnh nói. Chân lão cứ bước trên mỗi bật thang, đều đặn không biết mệt mỏi như vậy. Chỉ là mỗi lần lão bước đi, bật thang lại lóe lên một tia sáng an bình, giãy giụa truyền vào người lão khiến hơi thở lão ngày một mạnh lên, cũng khiến thân thể từ già nua trở nên đầy sức sống. Mộ nhìn thấy tất cả, nhưng chỉ cười không nói gì với lão. Người sau thì chỉ coi là Mộ đang cười trừ, cho nên cũng không hỏi gì thêm. Đột nhiên, Mộ nửa cười nửa không nói:

- Cơ mà lão biết, ngay từ khi lão bước vào đây, niệm trên người lão đã khiến cho bồ tát tỉnh dậy chứ?

Vừa nói xong, một bóng hình khổng lồ nổi lên, sừng sững như một ngọn núi khổng lồ chắn trước mặt hai người họ.

- Lần đầu gặp mặt, bồ tát.

Mộ nhe răng cười, hướng thân hình trước mặt một lễ tiết kì quái. Chỉ thấy thân thể khổng lồ của bồ tát nhanh chóng tỉnh dậy như cơn mê, những cánh tay to lớn như ngọn núi chống thẳng xuống những mảnh phật điện lơ lửng, khiến những nơi này hoàn toàn vỡ vụn. Dần dần, một khuôn mặt bồ tát kéo ra từ chín tầng trời, ánh mắt trống rỗng quan sát thật kỹ hai con kiến trước mặt, hồi lâu không cử động gì. Duy chỉ những làn gió lạnh ào ào quét qua, kết hợp với khuôn mặt vô hồn làm không khí tràn ngập cảm giác đè nén cùng rét buốt.

Đột nhiên, bồ tát nghiêng đầu, để lộ ra một khuôn mặt dữ tợn, ánh mắt đỏ lòm như máu cùng hàm răng chi chít gai nhọn. Từng dòng nước dãi theo kẽ răng chảy ra, rơi bộp trên những mảnh kiến trúc tàn phá khiến những nơi đó trong phút chốc tan ra thành những tràn khói đen nghi ngút xông lên bao lấy khuôn mặt bồ tát.

- Phật!

Bồ tát gầm lên hưng phấn, sau đó quơ tay đập thẳng xuống nơi hai người đang đứng. Chỉ thấy gió lớn quét qua, hành lang run lên một tiếng rồi nứt vỡ, biến thành những khối đá rơi lả tả vào không trung.



Tăng vốn hiệu Kế Thủy, vì nhà nghèo mà từ nhỏ đã vào chùa tạp dịch. Ngày tăng lớn cũng là lúc kháng chiến đến hồi gay cấn, người người theo dân quân, nhà nhà góp gạo. Chùa vì vậy mà các tăng nhân cũng đi theo lời kêu gọi, chỉ để lại mình tăng Kế Thủy cùng trụ trì khi đó là Huệ Tùng ở lại.

Thời gian kháng chiến gian khổ cùng với sự ngăn cản của ngoại xâm khiến chùa khi đó rơi vào hoàn cảnh bế tắc, nhưng cũng khiến Huệ Tùng nhìn rõ con người của Kế Thủy. Vậy nên trong những năm sau đó, Ngài coi Kế Thủy làm người nối nghiệp, ngày ngày giảng kinh phật, đêm đêm lại giáo thiền đạo khiến phật của Kế Thủy ngày một cao thâm. Chùa vì vậy mà cũng lan ra một trường phật tính, khiến nơi này trở thành một phương tịnh thổ mà chống trọi lại sự bào mòn của chiến tranh và thời gian.

Năm 1946, trụ trì Huệ Tùng viên tịch để lại cho Kế Thủy mảnh chùa này cùng với lời tâm nguyện, tìm kiếm thiên địa mà bao năm qua các đời trụ trì gắng sức. Đáng tiếc qua nhiều năm, tăng vẫn không tìm thấy thiên địa trong lời kể, chỉ phát hiện ra điều kỳ lạ nơi tàn tích mười ngọn tháp Chăm. Vậy là tăng nhận nuôi thêm trẻ nhỏ, khiến chúng trở thành tăng chúng quán xuyến mọi việc trong chùa, còn mình thì ra sức nghiên cứu phập pháp cùng bí ẩn nơi tháp cổ.

Quãng thời gian nghiên cứu đó nhanh chóng qua đi, một đi những sáu mươi năm. Lúc này, tăng đã một trăm lẽ một tuổi. Đối với nhiều người, độ tuổi này là một sự đánh dấu cho bệnh tật dằng vặt chứ không phải là sự trường thọ. Tuy nhiên, có lẽ do nghiên cứu phật pháp cũng có lẽ do tăng chịu ảnh hưởng của tháp cổ mà sức khỏe của tăng cực kỳ tốt đẹp. Lưng chỉ còng, da chỉ nhăn nheo còn trí tuệ vẫn mãi minh mẫn như ngày nào. Chỉ là thời gian quá dài khiến tăng chỉ có thể trao lại tâm nguyện cho lứa trụ trì kế tiếp, cho đến khi tăng gặp một đứa bé với đôi mắt sâu như đáy trời, tăng mới rõ ràng, nguyện của tăng có lẽ đến lúc thành rồi. Tuy nhiên, tăng cũng không ngờ đến cái giá phải trả chính là đối đầu với một tôn bồ tát khổng lồ.

...

Rầm.

Xung quanh khói bụi cùng đất đá xông lên thành một hình nấm lớn, khiến phiến thiên địa nhỏ nhoi này bị run lắc một cách dữ dội. Bồ tát lúc này đã không còn đứng trên mây, chỉ thấy nó buông người nhảy xuống, đạp liên tiếp vào chỗ nguyên bản lão tăng đang đứng, càng đạp càng hăng, càng đạp càng điên cuồng.

Cũng không biết bao lâu sau, bồ tát mới dừng lại. Nó nghiêng khuôn mặt hiền hòa nhìn xuống, ánh mắt trống rỗng toát ra một vẻ nghi hoặc, sau đó bắn ra một tia sáng trắng quét qua mọi ngóc ngách bị nó phá hủy. Chỉ thấy nó nhanh chóng dừng lại ở một tượng phật nằm, nơi có một bóng tăng nhân đang đứng lặng im, xung quanh là những tia sáng màu vàng đượm đang từ bốn phương tám hướng chạy tới.

- Phật...trả...mặt...

Bồ tát trúc trắc nói, sau đó lôi ra từ hư không sáu cánh tay, trên mỗi cánh đều bắt đầu kết ấn tướng khiến sau lưng nó dâng lên những hào quang màu đỏ máu. Dần dần theo ấn thủ hoàn thành, những vầng hào quang chồng chất tại một chỗ, hóa thành một vòng mặt trời đứng sừng sững sau lưng dị thường, còn bồ tát hóa thành như Phật Đà ngồi nghiêm trang trên đài sen như huyết vực. Chỉ thấy Phật thay tướng, ấn thiền chuyển thành vô úy xuyên phá không trung rơi xuống nơi lão tăng, ầm ầm như muốn hủy thiên diệt địa.

Keng.

Phật thủ trong tích tắc bị màn sáng xung quanh lão trụ trì ngăn cản, sau đó quang như phật hiển thành một tôn Mahakala đứng đối lập với Phật Đà, trên sáu cánh tay là những phật binh cuốn lấy tầng tầng phật quang sáng chói. Tiếng tụng kinh nhàn nhạt truyền ra, mang theo một tia vô sắc quét qua vạn vật.

“Khi Bồ Tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách.

Này Xá Lợi Phất, Sắc chẳng khác không, không chẳng khác Sắc, Sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng lại như thế.

Này Xá Lợi Phất, tướng Không của các pháp không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt...”

Ngồi trên đài sen, Phật Đà nghiêm trang nhìn hộ pháp. Mặc cho kinh kệ, mặc cho phật quang tràn ngập, Phật vẫn như không chút sắc phản huyền, tướng chốc thay đổi, các ấn như liên hoa ầm ầm va cùng một chỗ cùng phật binh. Không gian thoáng chốc trở nên bạc nhược, sau đó không chịu nổi mà nở rộ thành những lỗ đen đến tận cùng.

...

- Vạn vật giai không? Không có, vậy tồn tại làm gì?

Mộ nghe tiếng kinh, nhàn nhạt nhìn hai tôn phật dưới chân mình, sau đó chậm rãi bước tiếp lên các bậc thang. Hành lang vẫn còn còn treo tới tận trời như vạn năm rồi, chỉ khác lần này có thêm một dáng người chầm chậm đạp lên tầng tầng tro bụi như sương hoa.

...

Thảo Minh nhìn người con trai trước mặt, ánh mắt tràn đầy cảnh giác.

- Mày không phải Hoàng.

Nó chắc nịch nói. Quả thật, kẻ trước mặt hình dáng giọng nói đều là Hoàng, đến cả vệt nước dãi nơi cổ áo cũng giống y hệt nhưng cô biết rõ là giả mạo. Đây không phải là suy luận hay bằng chứng gì nhưng thật sự là vậy. Cảm giác dâng lên trong tâm nó khiến nó bất cứ lúc nào cũng có thể quay đầu bỏ chạy.

“Mộ” cười nhìn cô bé trước mặt gật đầu tán thán:

- Không hổ là thiên sinh huyền điểu. Nhưng tại sao trong ký ức của Mộ không có những thứ này? Hiệu ứng cánh bướm sao?

- Mộ? Là ai?

Thảo Minh nghe cái tên này, không hiểu gì hỏi lại. "Mộ" lúc này như chợt tỉnh, vỗ nhẹ lên đầu mình rồi rằng:

- Quên mất lúc này hắn vẫn chưa vứt bỏ cái tên Hoàng để thành Mộ.

Nhìn khuôn mặt non nớt của Thảo Minh,"Mộ" nói:

- Chúng ta vừa đi vừa nói chứ? Trời cũng sắp tối rồi, hắn cũng không cách nào trong một thời gian ngắn xong chuyện được.

Nói tới đây, như cảm nhận thấy ánh mắt dè chừng của cô bé trước mặt, hắn bật cười mà rằng:

- Yên tâm, ta chỉ là một đoạn ảo ảnh mà thôi, nếu không tin nàng có thể thử một chút.

Nghe vậy, Thảo Minh có chút nghi ngờ lấy từ trong túi ra một cây bút ném về phía “Mộ”. Chỉ thấy cây bút xuyên thẳng qua người trước mặt rồi rơi bộp xuống mặt đất, còn người vẫn như không, cười cười nhìn nó.

- Nàng tin rồi chứ? Với lại cô là huyền điểu, ma cũng không làm hại nàng được nữa là.

- Huyền...điểu?

- Đi, chờ ta dắt xe ra rồi vừa đi vừa nói vậy.

...

Lão hòa thượng nhìn tôn Phật Đà trước mặt, tâm niệm vừa chuyển, hộ pháp giằng khỏi phật đà mà ngồi xuống. Sáu tay hóa hai lòng bàn tay trái hướng lên trên, đặt ngang bụng, tay mặt chỉ xuống với những ngón tay của tay phải duỗi ra chạm đất, lưng tay mặt xoay tới trước bày ra ấn xúc địa. Chỉ thấy theo phật âm, phật quang co rút lại, bám lên da của Mahakala, bù lấy khuyết, dương lấy ưu, khiến trong nháy mắt hóa thành một tôn phật. Phiến di tích này cũng run lên như không cách nào chịu tuệ do hai tôn phật sinh ra, khiến tầng tầng trời cao rơi xuống đè thẳng lên cả hai tôn.

Phật do bồ tát hiển thành bị trời áp mà không thể không trở lại thành bồ tát. Phật do phật tính đắp nên lại bị vỡ vụn, tuy nhiên trong nháy mắt đã trở lại thành Mahakala như cũ.

- Nơi này là phật cư, là nơi mà chủng tộc có tính phật cư ngụ. Bởi vậy mà phật tính tràn đầy, dù cho qua trăm vạn năm ma diệt, dù cho bồ tát điên cuồng phá hủy. Lão là tăng nhân, cũng được coi là chủng phật tính, cho nên có thể hoàn toàn kế thừa được toàn bộ mà phát huy ra sức chiến đấu cao nhất.

Mộ đứng bên cạnh từ tốn nói. Lão hòa thượng vẫn chăm chú niệm kinh, nhưng tâm thần một phần vẫn hướng về đứa trẻ bên cạnh.

- Đáng tiếc, phật tính vẫn còn mà đất trời đã không chịu nỗi. Mỗi lần chấn động đều gia tốc nơi này hoàn toàn phá hủy, cho nên mới không có cách nào để hai tôn phật đà cùng tồn tại. Tất nhiên, chỗ tốt chính là bồ tát không cách nào phát huy ra toàn bộ lực lượng, niệm bị tuệ trong trời đất này đè nén khiến trí mơ màng, cũng là điều kiện tiên quyết để đánh bại nó.

- A di đà phật. Ngài để bần tăng vào nơi này, hẳn là để bần tăng đối phó với bồ tát chứ?

- Tất nhiên. Phật cư nếu không còn chúng phật, đều sẽ tồn tại một số dị thường thống trị. Chỉ có phật tử mới có thể lợi dụng triệt để hoàn cảnh nơi này để trấn áp hoàn toàn. Sao, lão thấy uất ức à?

Lão trụ trì một bên điều khiển hộ pháp chiến đấu cùng bồ tát, một bên chắp tay hướng Mộ lắc đầu:

- A di đà phật. Đây là nghiệp của bần tăng, trước khi viên tịch có thể thắp lên nghiệp hỏa vốn là điều mừng, cớ chi lại uất ức? Huống chi bồ tát hung ác dị thường, nếu như nó thoát ra ắt hẳn chính là một trận tai nạn với chúng sinh. Chỉ là bần tăng có một điều thắc mắc, làm sao Ngài có thể rõ nơi này đến vậy?

Mộ nghe câu hỏi của lão hòa thượng, trầm ngâm hồi lâu mới nhẹ nhàng lên tiếng:

- Ta có một đối thủ, vốn chấp chưởng một phương đất phật.

- A di đà phật! Đáng mừng, đáng mừng!

- Nhưng hắn chết rồi! Chết bởi một tôn bồ tát, sau đó phật địa cũng bị phá hủy.

Nói xong, hắn hướng về hai khuôn mặt của bồ tát mà nói rằng:

- Bồ tát vì niệm mà sinh, nên có ba mặt: ác, thiện, bản, ngã. Phật chúng chỉ chủ tu thiện, khiến bồ tát không được hoàn thiện. Cho nên nói bồ tát điên cuồng không phải là không có lý do, là chúng phật tự ăn phải quả đắng do bản thân gieo lên mà thôi. Mặc khác, muốn đánh bại nó thì chỉ cần trả lại mặt cho nó là được.

Lão hòa thượng nghe vậy thì chợt hiểu ra, không để ý Mộ như cơn gió biến mất, ánh mắt nhìn về bồ tát chỉ còn sự từ bi vô ngần.

- A di đà phật!