Quyển 5 - Chương 2: Bụi trần lắng đọng

Chương 2: Bụi trần lắng đọng

Tất cả lại trở về như ban đầu.

Đi hết một vòng lớn, yêu được một người, nhưng sau tất cả những bụi trần lắng đọng, nhận ra cái gì cũng chưa từng thay đổi, như thể chưa từng xảy ra điều gì vậy.

Cuộc sống vẫn yên ả như dòng sông, vẫn chầm chậm xuôi về một nơi xa mịt mờ, vô định.

Nếu phải nói có sự khác biệt nào, thì khác ở chỗ chính là cục diện chiến sự thay đổi. Quân Thục một đường rút về tây, Lưu Bị trốn vào thành Bạch Đế, quân Ngụy xuôi nam, rục rịch muốn động.

Thắng lợi không làm cho Tôn Quyền có một chút khinh suất, hằng đêm đều trằn trọc suy nghĩ, trăn trở không yên giấc.

Tôi biết vấn đề này đối với hắn mà nói, là nan giải cỡ nào. Nên tiếp tục truy kích, hay lựa chọn một phương án khác? Thắng lợi kia che giấu sau nó bao nhiêu âm mưu? Gia Cát Lượng ở Thành Đô không hề thấy có động thái gì, quân Tào ở phía bắc lại như hổ đói rình mồi, mà các bộ tộc man di ở Dương Châu, Sơn Việt vẫn chưa bình định xong. Hết thảy những vấn đề Đông Ngô đang phải đối mặt trước mắt, giống như đang nhảy múa trên trứng gà vậy?

Tháng tám, Lạc Thống đến Vũ Xương.

Hắn nhận lệnh của Lục Tốn tới truyền tin. Tôn Quyền đọc thư xong, trầm mặc thật lâu. Cuối cùng khẽ thở dài nói: “Bá Ngôn lúc nào cũng cẩn thận quá mức, thật y như cái tên của hắn.”

Lạc Thống cúi đầu, nói nhỏ: “Cũng vì thời thế bức bách.”

“Không,” Tôn Quyền nói, “Ta tin chắc, dù không có quân Ngụy ở phía bắc, hắn cũng sẽ tha cho Lưu Bị. Hắn chỉ cần Thục bại, chứ không muốn Thục vong.”

“Như vậy bệ hạ cho rằng, nên phải diệt Thục?” Lạc Thống hỏi.

Tôn Quyền trầm mặc không đáp, sau đó ánh mắt đảo một cái, nhìn Lạc Thống hỏi: “Ngươi nghĩ thế nào?”

Lạc Thống chần chờ một hồi, sau đó nhìn tôi và Tôn Quyền, kiên định nhả từng tiếng, “Năm đó sở dĩ Thống ngưỡng mộ Lỗ Túc đại nhân, là vì bị ý tưởng ‘chiến tranh là vì hòa bình’ của Lỗ Túc đại nhân làm cho cảm động. Hôm nay sở dĩ khăng khăng một lòng đi theo Lục đô đốc, chính là bởi vì Lục đô đốc cũng mang cùng một lý tưởng như thế.”

Tôn Quyền mỉm cười, lại đưa ánh mắt về tôi, “Nàng nghĩ thế nào?”

Tôi cúi đầu, khẽ đáp: “Xin hãy tin tưởng Bá Ngôn.”

.

Lạc Thống đi rồi, lúc tôi ra khỏi cửa, phát hiện hắn vẫn đứng bên ngoài chờ tôi.

“Phu nhân vẫn khỏe chứ?” Gã hỏi.

“Vẫn khỏe,” tôi gật đầu.

Hắn cũng gật đầu, đoạn nói: “Sau khi phu nhân đến Vũ Xương, vẫn không thấy tin tức báo về.”

“Có tin gì mà đáng phải báo? Đơn giản chỉ có bình an thôi.”

Hắn do dự một hồi, đoạn nói: “Nhưng Lục đô đốc vẫn thường hỏi thăm tin tức của phu nhân từ thần.”

Trái tim tôi thắt lại, nhưng ngoài mặt vẫn duy trì bình tĩnh, thản nhiên hỏi: “Chàng vẫn khỏe chứ?”

“Rất khỏe,” hắn gật đầu. Lại nhìn tôi một chút, cuối cùng nhịn không được mà nói: “Không bằng để thần bẩm với bệ hạ, sau đó phu nhân theo thần trở về.”

“Trở về?” tôi kỳ quái nhìn hắn, “Về đâu?”

“Về trong quân đội của Lục đô đốc a,” hắn khẩn thiết nói. “Chúng ta lại giống như trước kia, cùng nhau hành quân. Thần vẫn còn giữ lại lều của phu nhân ở trong doanh trại, vẫn luôn chờ phu nhân trở lại.“

Tôi nhìn vào mắt hắn, gượng cười, sau đó lắc đầu nói: “Không thể được, ta sẽ không quay lại nữa.”

Hắn cũng không kiên trì thêm, chỉ thở dài nói: “Lục đô đốc cũng đã sớm biết, phu nhân sẽ nói như vậy.”

Tôi lại cười, không nói thêm lời nào.

“Đúng rồi, Lục đô đốc dặn thần mang đến cho phu nhân một thứ,” hắn đột nhiên nhớ ra.

“Là thứ gì?”

“Xin đi theo thần.”

Hắn dẫn tôi đến một gốc cây, trên thân cây buộc một con ngựa, toàn thân trắng như tuyết, bốn vó đen bóng, trên cổ đeo chuông vàng.

“Tuyết Lạc,” tôi nhẹ gọi, vùi mặt vào cổ nó. Nó quay đầu lại, ngoan ngoãn liếʍ tay tôi. Lúc này, chiếc chuông vàng trên cổ nó nhè nhẹ vang lên.

“Lục đô đốc nói, có thể người sẽ muốn chăm sóc nó.”

“Thay ta cảm tạ ý tốt của Bá Ngôn,” tôi thành khẩn nói với hắn.

“Người tự mình cảm tạ ngài ấy thì hơn,” hắn đáp lời.

Tôi không trả lời hắn, chỉ nhẹ nhàng vuốt ve bờm ngựa. Hồi lâu mới quay đầu hỏi: “Cam tướng quân… được chôn cất… ở đâu?”

“Theo di nguyện của ngài ấy, đã được chôn cất tại địa phương. Dân chúng bản địa còn lập miếu cho ngài ấy.”

Tôi nhẹ nhõm gật đầu, lại có chút áy náy nói: “Ta vậy mà không đưa tiễn hắn được.”

“Không sao cả, Cam tướng quân nhất định hiểu được tâm ý của người.”

Lại là trầm mặc, sau một hồi lâu hắn nói: “Thần phải đi rồi.”

“Công Tự,” tôi bỗng nhiên gọi thẳng tên tự của hắn. Hắn quay đầu, có điều nghi hoặc nhìn tôi. Tôi chỉ nhìn hắn, cười cười, nhẹ giọng hỏi: “Ngươi vẫn chưa thành gia lập gia thất phải không?”

Hắn gật đầu, lại không nói gì.

“Nên lấy vợ sinh con đi,” tôi nói.

Hắn vẫn trầm mặc.

“Ta chờ uống rượu mừng của ngươi đấy.”

“Vậy người hãy chờ đi.”

Hắn khẽ cười một tiếng, đoạn phóng người lên ngựa, không một lời cáo biệt, chỉ thẳng một đường vụt đi, không hề quay đầu lại.

.

Tháng chín, quân Ngô ngừng vây thành Bạch Đế, bắt đầu lục đυ.c khải hoàn hướng về đông. Một tháng trôi qua, Lưu Bị không hề có chút động tĩnh nào, Gia Cát Lượng cũng không tỏ thái độ gì. Lại một tháng nữa trôi qua, Lưu Bị vẫn yên ắng thủ thành, Gia Cát Lượng càng án binh bất động.

Nhớ rõ lúc nhỏ đọc sách sử, lúc đọc đến đoạn này, tôi cũng không cảm thấy kỳ quái lắm: Lưu Bị thủ trong thành Bạch Đế hơn nửa năm, thẳng đến mùa xuân năm thứ hai thì qua đời. Lúc đó trong lòng tôi cũng chỉ lưu lại một ấn tượng ‘à ra thế’ rồi thôi.

Nhưng khi tự mình trải qua, thời điểm những tin tức này lũ lượt truyền đến, trong lòng lại không khỏi giống như đám người Ngô Trung, đều nổi lên nghi hoặc. Tại sao hắn vẫn luôn ở trong thành Bạch Đế, không trở về thành Đô chứ? Còn Gia Cát Lượng nữa, vì sao vẫn không có bất kỳ động thái nào?

Chỉ cho tới một ngày, nghe được hai tướng lĩnh thì thầm to nhỏ với nhau, nghi ngờ trong lòng mới chuyển sang một giả thiết mà mình chưa từng nhận ra: Lưu Bị không dám quay về Thành Đô.

Chuyện giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng rốt cục ra sao, Tôn Quyền cũng không có nhiều tinh lực để đoán. Trận chiến này xem như đã kết thúc, mà những nguy cơ mới, chỉ vừa mới bắt đầu.

Một ngày tháng mười, tôi tình cờ đi ngang phòng nghị sự, nghe thấy bên trong truyền đến tiếng thút thít rất nhỏ.

Tôi đẩy cửa bước vào. Tôn Quyền trong tay đang cầm một phong thư, trầm mặc không nói. Mà tiếng khóc thút thít ai oán kia truyền đến từ trên một chiếc giường nhỏ ở góc phòng, chính là của Tôn Đăng.

Tôi vừa định hỏi có chuyện gì, Tôn Quyền đã quay đầu qua, có chút tức giận quát Tôn Đăng: “Ngươi khóc cái gì? Có gì mà phải khóc? Ta có nói là sẽ đưa ngươi sang Ngụy chưa?”

Tôn Đăng không lên tiếng, càng khóc thảm thiết hơn.

Tôi nghi hoặc nhìn Tôn Quyền, hắn đưa bức thư trong tay cho tôi xem. Là thư Tào Phi đưa tới. Trong thư nói quân đội của hắn đã tới Nhu Tu, Nam Quận. Nếu bằng lòng giao Tôn Đăng ra làm con tin, bọn họ sẽ thu quân.

“Văn chương rõ là hay!” tôi gấp thư lại, thản nhiên nói.

Tôn Quyền hừ một tiếng, nói với Tôn Đăng: “Ngươi dóng tai mà nghe Ảnh nương nương ngươi nói thế nào kìa.”

“Thứ này, dán lên làm tranh chữ xem cũng tạm được, còn nội dung, đại khái không cần để ý tới.” Tôi quăng thư lên bàn, bước về phía Tôn Đăng, vỗ vai thằng bé, dịu dàng nói: “Đứa ngốc, làm sao có thể đưa con đi chứ.”

Thằng bé khóc nhỏ dần, ngẩng đầu nhìn tôi, ánh mắt ảm đạm. “Nhưng bọn họ đều nói, con phải đi… nếu con đi, chúng ta sẽ không cần khai chiến với Ngụy. Chúng ta đánh không lại Ngụy… Không thể chỉ vì mình con, mà hại tới cả Đông Ngô…” nó vừa nấc vừa nói.

“Nói hưu nói vượn!” Tôn Quyền tức giận rống, “Ngươi cho ta biết, ‘bọn họ’ là chỉ ai? Nói cho ta, ta lôi bọn chúng ra cắt lưỡi hết!”

“Phụ thân con sao có thể là người nhẫn tâm như vậy được!” tôi cũng nhịn không được, nhấn mạnh nói.

Tôn Đăng ngẩng đầu lên, đôi mắt rưng rưng ngấn lệ, ai oán nhìn tôi rồi lại nhìn Tôn Quyền, sau đó trên mặt hiện lên một nụ cười thê lương. “Cha không nhẫn tâm ư? Cha không nhẫn tâm thì tại sao lại đưa mẫu thân con đến Ngô?” nó ai oán hỏi.

Tôi sửng sốt quay đầu nhìn Tôn Quyền, hắn mặt mày xanh mét, chẳng nói một lời.

“Mẫu thân con không phải đang ở Kiến Nghiệp sao?” tôi kinh ngạc hỏi Tôn Đăng. Vừa mới dời đô đến Vũ Xương không bao lâu, nên các phu nhân của Tôn Quyền hiện vẫn còn ở lại Kiến Nghiệp. Tôi đương nhiên cho rằng, Từ phu nhân cũng đang ở Kiến Nghiệp.

“Nàng ta phạm lỗi, ta đã phế nàng ta đến Ngô rồi.” Tôn Quyền lạnh lùng đáp.

Tôi hít vào một hơi, lại không biết nói gì cho phải.

“Con cũng muốn đi Ngô, cha lại không cho con đi…” Tôn Đăng nhỏ giọng nói.

“Đứa bé ngốc này,” tôi ôm vai nó, nhẹ nhàng an ủi, “Con là thái tử Đông Ngô, sao có thể tùy tiện rời khỏi Ngô Vương chứ. Mẫu thân con có lẽ chỉ nhất thời hiểu lầm với phụ thân thôi. Sau này giải quyết xong mọi hiểu lầm, nàng sẽ lại về thôi.”

Tôn Quyền hừ một tiếng toan mở lời, tôi vội dùng ánh mắt ra hiệu ngăn hắn lại.

“Người gạt con,” Tôn Đăng kiên quyết lắc đầu. “Con biết mọi chuyện không phải như người nói.”

“Con đừng luôn nói những lời khiến cho phụ thân con khó xử, được không?” tôi nhấn mạnh, không vui nói.

Nó lại một lần nữa cười thảm đạm.

“Phụ thân thật sự khó xử sao?” nó nhìn tôi, lại nhìn sang Tôn Quyền, vừa khóc vừa cười nói. “Nếu phụ thân khó xử, thì cứ đưa con sang Ngụy đi… con đến Ngụy rồi, phụ thân không cần khó xử nữa… Đệ đệ so với con thích hợp làm thái tử hơn…”

“Ngươi còn nói xằng bậy!” Tôn Quyền lại lần nữa quát to.

Tôi vội vàng kéo Tôn Đăng, vừa kéo nó ra khỏi phòng vừa khuyên nhủ: “Đừng nghĩ nhiều quá. Phụ thân con nhất định sẽ không đưa con sang Ngụy đâu. Con là con trai ngài ấy, cho dù ngài ấy không làm Vương, cũng phải bảo vệ con.”

Thật vất vả lắm mới dỗ yên thằng bé, tôi trở vào phòng, thấy Tôn Quyền tay cầm phong thư, ngẩn người suy nghĩ.

“Ngài do dự sao?” tôi nhẹ giọng hỏi.

“Không,” hắn kiên quyết lắc đầu, “Nếu giao thái tử cho Ngụy, về sau ta còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ.”

Dừng một chút lại nói: “Lại nói, ta vẫn có tư tâm. Cho dù quyết định không đưa Đăng Nhi đi, cũng là vì mình mà thôi. Có phải ta không xứng làm một phụ thân?”

Tôi ngập ngừng một lúc, sau đó nắm tay hắn, từ trên tay hắn lấy phong thư, xé vụn rồi tiện tay ném luôn xuống đất, ôn nhu nói: “Ít nhất ngài vẫn là đang bảo vệ nó.”

.

Tháng mười một, quân Ngô và quân Ngụy khai chiến.

Chiến tranh vừa mở màn đã là một hồi vô cùng khốc liệt. Tào Phi đích thân dẫn quân nam hạ, binh lính chia ra vài đường cách sông mà giao chiến với quân Ngô. Liên tiếp hai ba trận, tin chiến báo về Vũ Xương, người chết vô số kể. Thậm chí trước giờ vốn trấn thủ Nhu Tu – Chu Thái thân kinh bách chiến, vũ dũng như thần, cũng bị trọng thương ngay từ màn mở đầu. Tướng lĩnh thay thế hắn – Chu Hoàn dẫn năm ngàn binh, ở Nhu Tu cùng quân Tào liên tục giằng co hơn một tháng.

May mà ở thời khắc quan trọng nhất, Lục Tốn dẫn binh mã đuổi về kịp lúc. Không thể nghi ngờ, hắn đến đã cấp cho quân lính trong cuộc chiến một liều thuốc kí©h thí©ɧ, chấn chỉnh hăng hái hẳn lên, không lâu sao, quân Ngụy buộc phải thoái lui triệt để.

Mặc dù nguy cơ lần này đã được hóa giải, nhưng Đông Ngô đã hoàn toàn đắc tội với Tào Ngụy. Về sau Tôn Quyền cùng Tào Phi miễn cưỡng trao đổi thư từ vài lần, sau đó cũng không tiếp tục tới lui nữa.

Sau khi quân Ngụy vừa rút quân không bao lâu, một ngày nọ, Tôn Quyền tâm sự nặng nề bước vào phòng, loanh quanh vài vòng, mới nói với tôi: “Ta có ý định cùng Thục bắt tay nghị hòa.”

“Đây là chuyện tốt,” tôi gật đầu.

“Nhưng có một chuyện nghĩ mãi không ra.”

“Là chuyện gì?”

“Nếu phái người thông nghị, nên đến thành Bạch Đế trước, hay là tới Thành Đô trước?”

Tôi suy nghĩ một hồi, hiểu được ý tứ trong lời hắn. Ngẩng đầu lên lại thấy hắn cau mày: “Nghe nói, Lưu Bị không dám quay về Thành Đô. Mà Gia Cát Lượng lại không dám đến thành Bạch Đế. Còn nghe đâu, Lưu Bị không còn sống được bao lâu. Nếu muốn nghị hòa, liệu có nên tìm Gia Cát Lượng vẫn hơn?”

Tôi cười nhẹ, “Có thể những lời đó là thật. Nhưng ta tin là hai người họ cuối cùng cũng không đến mức cứ mãi như vậy đâu. Một ngày nào đó, khi Lưu Bị đối mặt với cái chết tất sẽ hiểu được thôi.”

Hắn gật đầu, nói: “Ta sẽ cử sứ giả đến thành Bạch Đế.”

.

Tháng mười hai, sứ giả nước Thục là Tông Vĩ tới Vũ Xương.

Tông Vĩ là một người vừa trầm tĩnh vừa khéo léo. Ở Vũ Xương, hắn đúng mực mà biểu hiện ra dáng vẻ hiền hòa và cẩn trọng cần có. Khi hắn cùng Tôn Quyền hữu nghị mà tôn kính hiệp đàm ở bên trong, mọi người đều phảng phất như nghe thấy được tiếng nứt của khối băng dày đang ngăn cách giữa hai nước Ngô, Thục.

Hắn mang theo cam kết của Tôn Quyền quay về thành Bạch Đế. Trước khi hắn rời đi, tôi tìm cơ hội đến gần, dùng thanh âm chỉ có hai người nghe được, hỏi: “Có thật là hoàng thúc không dám quay về Thành Đô?”

Hắn sửng sốt nhìn tôi, sau đó quay đầu đáp: “Đó cũng không phải là chuyện phu nhân có thể hỏi tới.”

Tôi không chịu buông tha, lại hỏi: “Có phải đại nhân cũng cảm thấy, Gia Cát thừa tướng mới giống một quân vương hơn?”

Lúc này hắn mới chịu trả lời, “Chính vì ngài ấy giống quân vương hơn, cho nên ngài ấy mới không cần trở thành quân vương.”

Tôi bật cười. Hắn nhìn nhìn tôi, lại nói thêm: “Có thể phu nhân không nhớ rõ ta. Năm đó khi phu nhân nói với Hoàng thượng rằng không bao lâu nữa Thừa tướng sẽ là ‘nhân thần’, ta cũng có mặt ở đó.”

(* nhân thần: ý chỉ người có địa vị tối cao trong chúng đại thần ở thời đại Quân chủ (Tam quốc))

Tôi nhìn hắn, cười hỏi: “Muốn tính nợ cũ sao?”

Hắn lắc đầu: “Đều đã qua rồi.”

Tôi trầm mặc không nói, chỉ nghe thấy tiếng gió thổi lá cờ trên cao bay phần phật.

Đúng vậy, đều đã qua rồi.

Nếu năm đó Lưu Bị trong lòng không có sẵn nghi hoặc, thì tôi có nói gì cũng vô dụng.

Nếu Gia Cát Lượng thật sự đem lòng toan tính mưu mô, thì dù Lưu Bị có đề phòng thế nào cũng vô ích.

Thời gian là một con sông dài chầm chậm chảy xuôi, chỉ có thật lâu thật lâu về sau, khi cát bồi bên bờ bị nước sông gột rửa đi hết, mới là lúc mọi người có thể thấy được chân tướng ban đầu của lịch sử.

.

Từ đầu xuân, binh mã Đông Ngô đã bắt đầu lũ lượt tập trung về Vũ Xương.

Tháng hai, Lục Tốn cũng về tới Vũ Xương.

Tôi thủy chung vẫn không gặp chàng. Mọi người đều nói tôi dường như đã thay đổi thành một người khác. Mỗi ngày chỉ ngồi lỳ trong phòng, ngồi sau một cánh cửa mà hắn không thể nào đẩy ra được, không gặp ai, không hỏi chuyện bên ngoài, mặc cho thời gian từng chút từng chút một trôi qua.

Không phải là tôi hưởng thụ sự tịch mịch, mà chỉ là không cách nào tưởng tượng được tình cảnh khi gặp lại chàng.

Thay vì gặp lại, không bằng hoài niệm.

Tôi cứ như vậy mà ẩn cư mấy tháng. Cho dù đến tháng tư, tin ‘Lưu Bị bị bệnh qua đời ở thành Bạch Đế, ủy thác lại cho Gia Cát Lượng’ truyền đến, cũng không đủ làm cho tôi có dũng khí bước ra khỏi cánh cửa này.

Song yên tĩnh đến quá lâu, trong lòng lại bắt đầu mơ hồ có cảm giác bất an. Phảng phất như có một cơn ác mộng rất dài, rất tối tăm, mà tôi hoàn toàn không tài nào nhớ ra được.

Có đôi lúc tôi tự hỏi mình, liệu có phải mình đã quên mất chuyện gì hay chăng?

Mãi cho đến một buổi tối, khi tôi giật mình bừng tỉnh từ trong mộng. Bần thần ngồi trên giường, mồ hôi lạnh thấm ướt toàn thân. Khi đó tôi mới phát hiện, tôi quả nhiên đã quên mất một chuyện rất quan trọng.

Tôi mơ thấy Tôn Thượng Hương chết.