Bốn người đàn bà trên cây thập giá
Còn lại một mình Vêrôních trên đảo. Nàng lặng lẽ đứng tì hai khuỷu tay lên thành cửa sổ, đầu gục vào cánh tay. Cứ thế cho đến khi mặt trời xuống thấp, chìm vào những đám mây sát mặt biển phía chân trời.
Thực tại đã đi qua bóng tối tâm hồn nàng như những bức tranh mà nàng cố không nhìn nhận chúng nữa, nhưng chúng cứ mỗi lúc thêm chính xác đến nỗi nàng tưởng mình vẫn đang sống trong những cảnh tàn khốc đó.
Nàng cố tiếp tục gạt chúng ra khỏi đầu óc. Nàng không tìm cách lí giải tất cả những sự việc vừa xảy ra, không đặt những giả thiết, những lí lẽ làm sáng tỏ tấn thảm kịch. Nàng thừa nhận Phơrăngxoa và Xtêphan là những kẻ mất trí. Bởi vì nàng hoàn toàn không thể đưa ra một nguyên nhân nào khác để giải thích hành động của họ. Và chính vì thừa nhận họ là kẻ mất trí nên nàng càng không thể gắn cho họ những động cơ có tính chất âm mưu và cố ý. Hơn nữa việc Honorin quẫn trí nhẩy xuống vực, chính mắt nàng vừa chứng kiến cũng đủ là căn cứ cho nàng tin rằng tất cả các sự kiện xảy ra tại đây đều có thể do cái hiện tượng rối loạn tâm thần mà hầu hết những người dân đảo Xarếch đều là nạn nhân của nó! Ngay đến bản thân nàng cũng có lúc cảm thấy đầu óc mình nghiêng ngã, ý nghĩ tiêu tan như làn sương mỏng và những bóng ma vô hình cứ lảng vảng khắp mọi nơi.
Vêrôních thϊếp đi trong giấc ngủ chập chờn đầy ác mộng. Nàng mê thấy mình khổ quá và đã khóc như mưa như gió. Trong lúc mơ màng, nàng nghe thấy những tiếng động nhẹ và bộ óc mệt mỏi của nàng nghĩ ngay đến những dấu hiệu thù địch. Kẻ thù đang mon men tới gần! Nàng choàng mở mắt.
Trước mặt, cách độ ba bước chân, một con vật kì dị có bộ lông màu cà phê sữa đang ngồi trên hai chân sau, hai chân trước khoanh chéo trước ngực như tay người. Đó là một con chó của Phơrăngxoa mà Honorin đã có lúc kể cho nàng nghe, một con chó trung hậu tận tụy và hài hước. Nàng còn nhớ cả cái tên của nó: Vạn Sự Tốt Lành.
Vêrôních khẽ nhắc lại mấy tiếng đó. Nàng giơ tay phác một cử chỉ bực dọc để xua đuổi con vật lố lăng có cái tên mỉa mai nhạo đời ấy đi. Vạn Sự Tốt Lành. Nàng nghĩ đến những người bị gϊếŧ trong cuộc tàn sát ghê tởm vừa qua, nghĩ đến tất cả những người dân đảo Xarếch giờ đây không còn nữa, nghĩ đến cha, đến Honorin vừa gieo mình xuống vực, nghĩ đến Phơrăngxoa trở thành đứa gϊếŧ người... vậy mà... hừ... vạn-sự-tốt-lành!
Tuy nhiên con chó vẫn không nhúc nhích. Nó đang mải miết làm điệu bộ như Honorin đã miêu tả. Đầu cúi hơi thấp, một mắt nhắm nghiền, hai mép kéo sệ cho đến tận mang tai, hai chân trước khoanh trước ngực, cả bộ mặt của nó toát lên một nụ cười thật cởi mở.
Lúc này Vêrôních mới nhớ lại. Đó là cách thức Vạn Sự Tốt Lành dùng để an ủi những ai đang phiền muộn. Vạn Sự Tốt Lành không chịu nổi cảnh nước mắt. Hễ thấy có người khóc nó lại làm điệu bộ cho đến khi người ta phải cười, phải vuốt ve nó, nó mới thôi.
Vêrôních không cười. Nàng kéo con chó lại gần mình và nói:
- Không phải đâu, con vật tội nghiệp của ta ạ! Chẳng có gì tốt lành cả. Trái lại mọi sự đều xấu. Nhưng không hề gì. Chúng ta cần phải sống. Phải không? Và nhất là đừng để mình trở thành điên rồ như những kẻ khác...
Nhu cầu sự sống buộc Vêrôních phải hành động. Nàng xuống bếp tìm một vài thứ ăn được và dành cho con chó một phần hậu hĩ nhất. Rồi nàng lên gác.
Đêm đến Vêrôních mở cửa một gian phòng bỏ trống chắc đã lâu ngày. Vì phải liên tục chịu đựng những phút xúc động căng thẳng nên lúc này nàng chỉ thấy cơ thể mệt mỏi tâm trí rã rời, vừa đặt mình xuống là ngủ thϊếp đi. Vạn Sự Tốt Lành nằm thức canh chừng ngay cạnh chân giường.
Hôm sau trời sáng đã lâu Vêrôních mới thức dậy với một cảm giác bình thường, thần kinh bớt căng thẳng và cảm thấy vững tâm hơn. Nàng cho cuộc sống của nàng lúc này chẳng có gì đặc biệt. Nó cũng chỉ như đoạn nối tiếp của cuộc sống êm đềm lặng lẽ ở tu viện Bơđăngxông mà thôi.
Những ngày buồn tủi vừa qua đã kéo nàng về với dĩ vãng, với những kỉ niệm xa xăm mà sự kéo lùi ấy đã chẳng khiến nàng phải bận tâm lo lắng. Những người vừa mới lìa bỏ cuộc đời trong cơn phong ba bão táp chỉ còn lại trong kí ức nàng như những bóng dáng xa lạ, những người mà nàng vừa gặp gỡ đã vội vã chia tay và chẳng bao giờ còn gặp lại! Trái tim nàng không còn biết thương xót. Tang tóc không làm nàng động tâm. Nàng coi tình thế của nàng lúc này chẳng qua chỉ là một dịp nghỉ ngơi ngoài dự kiến và vô thời hạn. Một cảnh sống đơn độc có tác dụng hồi sức và hình như nó còn rất tốt và rất cần thiết đôi với nàng nữa! Đến nỗi có một chiếc tàu hơi nước không biết từ đâu đến thả neo ở cái xó xỉnh gở dữ và xúi quẩy này, nàng cũng chẳng buồn nghĩ đến nhờ nó đưa mình đi khỏi đảo!
Không nghi ngờ gì nữa, lúc rạng sáng trong đất liền người ta đã nghe thấy những tiếng nổ ngoài đảo và bây giờ người ta đến. Vêrôních nghĩ thế và bất giác đứng im.
Nàng thấy một chiếc xuồng máy tách khỏi chiếc tàu lớn chạy vào bờ và cho rằng người ta sắp đổ bộ lên đảo lùng sục trong làng. Nàng ngại bị lôi kéo vào một cuộc điều tra, mà con trai nàng rất có thể bị dính dấp vào đó. Nàng hoàn toàn không muốn để người ta bắt gặp, người ta chất vấn, biết rõ tên tuổi nhân cách tiểu sử của nàng và lại đưa nàng vào cái vòng địa ngục mà nàng vừa mới từ đó thoát ra. Nàng muốn chờ một hoặc hai tuần lễ, chờ một sự may rủi một chiếc thuyền nào đó ghé vào đây đưa nàng đi.
Nhưng liệu có ai ra tận lãnh địa Pơriơrê heo hút này không? Chiếc tàu hơi nước đã rời khỏi đảo và chẳng còn gì khuấy động cảnh đơn độc của người thiếu phụ trẻ nữa.
Vêrôních ở lì một chỗ ba ngày liền. Số phận hình như thôi không giao nộp nàng cho những đợt tấn công mới. Nàng chỉ có một mình đơn độc phải tự mình làm chủ lấy mình. Con chó Vạn Sự Tốt Lành đến với nàng như một sự hỗ trợ to lớn cũng đi đâu mất.
Lãnh địa Pơriơrê chiếm trọn một đầu hòn đảo nhỏ trong khu vực nhà dòng Bênêđíchtanh bỏ hoang từ thế kỉ mười lăm dần dần đổ nát hoang tàn.
Ngôi nhà có từ thế kỉ thứ mười tám, do một chủ hãng đóng tàu giàu có người Brơtanhơ bỏ tiền ra xây bằng các vật liệu lấy từ khu nhà dòng đổ nát ấy, với những viên đá tảng xám xịt âm thầm muôn thuở của nhà tu, không một chút dáng vẻ hấp dẫn về phương diện mỹ thuật của công trình kiến trúc. Các đồ đạc bày biện trang trí ở bên trong cũng thế. Vêrôních không dám đặt chân vào các căn phòng của ngôi nhà. Ấn tượng về người cha và đứa con trai đã kìm chân nàng trước những khuôn cửa khép kín.
Nhưng đến ngày thứ hai, dưới ánh mặt trời của mùa xuân tươi sáng, Vêrôních đã tìm ra khu trồng hoa. Khu vườn kéo dài đến tận mũi hòn đảo nhỏ. Nó cũng giống như bãi cỏ trước tòa nhà nham nhở vì những công trình đổ nát và những bụi cây trường xuân phủ kín khắp nơi.
Nàng để ý thấy tất cả các lối đi ở đây đều hướng về một mũi đất hiểm trở, có rừng sên cổ thụ cao vυ"t vây quanh. Đến tận nơi Vêrôních nhìn rõ từng cây sên mọc quây quần thành một khu rừng thưa hình bán nguyệt trông ra biển.
Chính giữa khu rừng có một bàn đá cổ, mặt bàn hình bầu dục hơi ngắn đặt trên hai trụ bằng đá gần như vuông vắn. Nơi đây phong cảnh hùng vĩ âm u mang dáng dấp tôn nghiêm huyền bí khiến người ta phải sùng kính. Đứng ở chỗ này có thể phóng tầm mắt ra ngoài xa vô tận.
“Bàn Đá Các Tiên” mà Honorin kể đây rồi! Vêrôních thầm nghĩ. Vậy thì từ đây đến Canve Nở Hoa và những bông hoa của Magơnốc chắc không còn xa nữa.
Nàng đi vòng quanh các chân của chiếc bàn đá cổ đồ sộ. Mặt trong của các chân bàn có khắc một vài dấu hiệu bí ẩn không luận ra được. Nhưng ở các mặt ngoài hướng ra biển, bằng phẳng nhẵn nhụi có những hình vẽ mới thoạt nhìn Vêrôních lại một phen rụng rời lo sợ. Trên mặt phiến đá bên phải là những hình vẽ vụng về thô sơ khắc rất sâu, bốn cây thập giá và bốn người đàn bà bị hành hình. Mặt phiến đá bên trái là những dòng chữ khắc rồi lâu ngày bị mưa gió làm mờ đi hoặc cũng có thể do con người cố ý cạo đi. Tuy nhiên cũng còn vài dòng đọc được. Cũng những dòng chữ Vêrôních đã thấy trong bức tranh bên cạnh xác Magơnốc: “Bốn người đàn bà bị hành hình trên cây thánh giá...” “Ba mươi chiếc quan tài.” “Hòn đá thánh cho sự sống và cái chết.”
Vêrôních lảo đảo rời khỏi những tấm bia đá. Bức màn bí ẩn vẫn giăng kín phía trước và hình như khắp cả mọi nơi trên đảo. Nàng kết luận chỉ có đi khỏi Xarếch! Đi ngay lập tức!
Một lối mòn từ khu rừng thưa đổ ra sát ngay bên phải cây sên cuối cùng. Cây sên chắc bị sét đánh nên chỉ còn trơ thân cây với một vài cành khô khẳng khiu. Xa hơn nữa bước xuống mấy bậc đá, vượt qua một bãi cỏ hẹp có bốn hàng bia đá trồng thẳng tắp, nàng chợt dừng lại bật lên một tiếng nghẹn ngào: “Ôi!” Nàng đứng sững sờ trước một cảnh tượng kì lạ, miệng thì thầm: “Những bông hoa của Magơnốc.” Cứ thế Vêrôních đi theo hai hàng bia đá đến hai tấm bia cuối cùng sừng sững như hai cột cổng chào, mở ra một quang cảnh lộng lẫy chưa từng có. Thoạt đầu là một sân trước hình chữ nhật chiều dài không quá năm chục mét thấp hơn lối đi mấy bậc, hai bên cũng hai dãy bia đá cao bằng nhau với khoảng cách rất đều đặn chẳng khác gì những hàng cột đá trong các cung diện. Khoảng giữa và các góc thấp của cung điện này (nếu có thể gọi như thế) được lát những phiến đá hoa cương to không đồng đều và đã rạn nứt, cỏ từ các khe nứt mọc trồi lên nom như những mạch chỉ viền xung quanh các ô kính màu trên khung cửa sổ.
Giữa sân có một ô vuông hẹp. Trong ô vuông, hoa đua nhau nở chen chúc quanh một pho tượng Đức Chúa cũ kĩ bằng đá. Những bông hoa mới lạ lùng làm sao! Những bông hoa rực rỡ ngoài sức tưởng tượng! Đẹp tuyệt trần! Những bông hoa mơ màng huyền ảo kì lạ to hơn hẳn những bông hoa thông thường!
Vêrôních chẳng lạ gì các loài hoa nhưng nàng vẫn hoàn toàn bất ngờ sửng sốt trước kích thước đồ sộ và vẻ đẹp huy hoàng của những bông hoa. Có rất nhiều thứ hoa nhưng số bông hoa của mỗi thứ không nhiều. Có thể nói đây là một lẵng hoa tập hợp tất cả màu sắc hương thơm và vẻ đẹp của loài hoa!
Điều lạ lùng nhất là những bông hoa này không nở cùng một lúc. Chúng kế tiếp nhau ngày này qua ngày khác, vừa sinh sôi vừa nở hoa. Thường thường vẻ đẹp khêu gợi sống động của hoa chưa bao giờ kéo dài hai hoặc ba tuần lễ. Đó là thời kì nở rộ và phát triển rực rỡ, lộng lẫy, kiêu hãnh trên những cuống hoa cường tráng.
Đây là loài hoa phù du (hương sắc chóng phai tàn) của xứ Viếcgini, kia là những giống cây mao cấu, những cây họ huệ, họ mõm chó, hoa họ hồng đỏ như máu, những bông hoa cầu vồng sắc tím còn lóng lánh hơn áo lễ cha côi Hoa Lalét, hoa Phơlốc sặc sỡ, hoa Phụ tử, hoa Phisia, hoa Môngbơrơsia...
Và trên tất cả các loài hoa, ôi! Làm cho người thiếu phụ trẻ xao xuyến đến tột độ! Trên tất cả các lẵng hoa chói lọi kia, rất cao, trên suốt một dải hẹp vây quanh chân tượng Đức Chúa là những chùm hoa màu xanh da trời, màu trắng, màu tím... như đang đua nhau vươn tới Vì Chúa Cứu Thế! Những bông hoa Vêrôních!
Vêrôních xúc động ngây ngất. Và khi lại gần tấm bảng nhỏ gắn ở đế pho tượng nhìn thấy dòng chữ “Bông hoa của mẹ,” nàng bỗng thấy bàng hoàng.
Vêrôních không tin vào phép lạ. Cho dù những bông hoa có kì diệu hơn hẳn những bông hoa xứ sở nàng - điều đó nàng thừa nhận - nhưng nhất định nàng không tin các điều phi lí và khác thường lại chỉ có thể giải thích bằng những lí lẽ siêu tự nhiên hoặc những công thức và thủ đoạn tà thuật mà chỉ những người như Magơnốc mới nắm được bí quyết. Không, những điều khác thường đều có nguyên nhân của nó, có thể chỉ là những nguyên nhân rất đơn giản và từ những nguyên nhân đơn giản ấy, các sự kiện sẽ lần lượt được phơi bày ra ánh sáng.
Tuy nhiên đứng giữa bối cảnh tà giáo, trước một kiểu cách trang trí huyền ảo mà sức mạnh mê hoặc của nó như được nhân lên gấp bội bởi sự có mặt của Đức Chúa Trời nổi bật hẳn lên giữa muôn hoa, đang dâng hiến cho Người tất cả sắc đẹp và hương thơm của nó, bất giác Vêrôních cũng quỳ xuống!
Hôm sau và hôm sau nữa Vêrôních lại đến Canve Nở Hoa. Lần này vẻ huyền bí vây bọc quanh nàng biểu lộ dưới hình thái khác hẳn; tươi tắn hơn, lộng lẫy hơn, khiến Vêrôních chạnh lòng nghĩ tới đứa con trai mà lòng lâng lâng không gợn chút hận thù, không vương mối âu sầu tuyệt vọng trước những bông họa Vêrôních màu tím!
Sang đến ngày thứ năm, Vêrôních chợt nhận ra thức ăn của nàng đã cạn. Vào quãng xế chiều, nàng lững thững đi xuống làng. Trong làng phần đông các ngôi nhà đều bỏ ngỏ. Hình như chủ nhà lúc ra đi vẫn có ý trở về lấy thêm những thứ cần thiết. Những cây phong lữ thảo vẫn mọc bên rìa cửa sổ.
Những chiếc đồng hồ quả lắc vẫn lặng lẽ đếm thời gian trong các căn phòng trống trải. Trái tim Vêrôních thắt lại. Nàng không dám bước qua ngưỡng cửa, ngậm ngùi quay gót trở ra.
Khi đi ngang qua một kho chứa đồ cách bến không xa, Vêrôních thấy những túi vải và những chiếc hòm mấy hôm trước Honorin định đưa xuống xuồng máy. Nàng nhủ thầm thế là không chết đói. Chỗ này phải sống được hàng tuần lễ... từ nay...
Nàng nhặt nhạnh bỏ tất cả vào một cái thùng nào sôcôla, bánh bítcốt, đồ hộp, gạo, diêm... và khi định trở về Pơriơrê nàng lại nảy ý muốn tiếp tục đi xem tận đầu kia hòn đảo, lúc trở về sẽ mang thùng thực phẩm về luôn thể.
Vêrôních lần theo một lối đi rợp bóng cây vắt ngược lên quả đồi trước mặt. Phong cảnh ở đây không có gì khác. Cũng những thung lũng, những cánh đồng bỏ hoang không trồng trọt, không một bóng gia súc, vẫn những cánh rừng sên cổ thụ. Hòn đảo thắt lại hẹp dần, hai bên đều không có vật che khuất, có thể nhìn thẳng ra biển và phân biệt rõ cả bờ biển xứ Brơtanhơ xa tít tắp.
Từ bờ vực bên này sang bờ vực bên kia có một hàng rào chắn ngang phân chia ranh giới lãnh địa, một lãnh địa với cái vẻ ngoài ốm yếu bệnh hoạn, những dãy lán dài đổ nát, những nhà tắm mái lợp vá víu và một mảnh sân rác rưởi bẩn thỉu không người trông nom dọn dẹp, mặt sân bề bộn những mảnh sắt vụn và mẩu củi cháy dở.
Đúng vào lúc Vêrôních định quay về, nàng giật mình chợt dừng lại. Hình như có tiếng người rêи ɾỉ đâu đây. Nàng lắng tai nghe. Xung quanh im lặng như tờ. Nhưng rồi những tiếng kêu lại vẳng đến lần này nghe rõ hơn. Đó là những tiếng kêu cứu thảm thiết, tiếng phụ nữ. Hóa ra dân chúng trên đảo chưa phải đã bỏ đi hết? Nàng nghĩ thế và cảm thấy vui vui, cái vui pha trộn chút phiền muộn. Vui vì nàng không đến nỗi đơn độc trên hòn đảo Xarếch này. Buồn là vì những sự việc rủi ro có thể sẽ còn lôi cuốn nàng vào vòng lẩn quẩn của cái chết và sự kinh hoàng.
Vêrôních chú ý nghe và xác định tiếng kêu không phải từ ngôi nhà mà từ dãy nhà tắm bên phải cái sân. Lối vào sân chắn sơ sài bằng một hàng rào đơn giản. Nàng chỉ việc đẩy ra. Một tiếng kẹt khô khan, lập tức tiếng kêu trong dãy nhà tắm nổi lên to hơn. Không nghi ngờ gì nữa những người trong đó đã nghe thấy tiếng động ngoài sân. Vêrôních bước nhanh đến. Mái nhà tắm nhiều chỗ bị thủng nhưng tường dày vững chắc, cánh cửa đã cũ và cài then sắt. Một cánh cửa đang bị đập thình thình từ bên trong xen lẫn tiếng kêu gào cuống cuồng: “Cứu tôi với! Cứu tôi với!” Nhưng rồi trong đó hình như bắt đầu diễn ra một cuộc giằng co gay gắt.
Một giọng nói kèm theo tiếng răng nghiến ken két:
- Câm đi Cơlêmăng, nhỡ bọn nó đến thì sao...
Tiếp đến một giọng khác lanh lảnh nhưng đỡ chói tai hơn:
- Không, không Giéctơruyt, không phải đâu, không phải chúng nó đâu... Ai đấy? Cứ mở cửa ra, chìa khóa vẫn còn để ở lỗ khóa ấy!
Vêrôních đang tìm cách mở cửa, quả nhiên nàng thấy chiếc chìa khóa to tướng vẫn cắm trong ổ khóa. Nàng chỉ việc xoay một cái, cánh cửa đã mở tung, lập tức nàng nhận ra các bà xơ Ácchinha quần áo tả tơi, thân hình chỉ còn da bọc xương mang dáng dấp hau háu của những mụ phù thủy. Hai bà xơ đang ngồi trong chiếc chậu tắm chồng chất cả với những dụng cụ nhà bếp. Một bà xơ thứ ba nằm co ro trong ổ rơm lót dưới đáy chậu đang rêи ɾỉ, tiếng nói phều phào như sắp chết.
Giữa lúc đó một trong hai bà xơ ngồi trong chậu đột nhiên bị kiệt sức gục xuống, còn bà xơ kia đôi mắt sáng rực đang lên cơn sốt rét cố đứng lên nắm tay Vêrôních, hổn hển nói:
- Bà có trông thấy bọn chúng không? Hả? Chúng vẫn ở đây à? Sao chúng không gϊếŧ bà? Từ lúc mọi người đi khỏi Xarếch bọn chúng trở thành chúa tể... Và đến lượt chúng tôi... Thế đấy. Chúng tôi bị nhốt ở đây đã sáu ngày rồi... Sáng hôm ấy khởi hành... Tất cả gói ghém hành lí sửa soạn xuống thuyền. Chúng tôi quay về đây lấy thêm quần áo khô trong nhà tắm. Bọn chúng ập đến... Chúng tôi bị bất ngờ... hoàn toàn không biết gì... Chỉ biết cánh cửa tự nhiên đóng sập khóa chặt... Trong này sẵn có khoai tây bánh mì, nhất là nước khoáng... nên chúng tôi không đến nỗi khốn đốn lắm... Nhưng chỉ lo chúng quay lại gϊếŧ... Liệu đã đến lượt chúng tôi chưa? Ôi, bà tốt quá! Thế mà chúng tôi dỏng tai ra nghe ngóng, cứ run cả người lên... Chị cả phát điên... Bà có nghe thấy chị ấy nói huyên thuyên... Chị kia là Cơlêmăng không còn có thể... Còn tôi... là Giéctơruýt.
Bà xơ này xem ra còn khỏe vì bà ta nắm vào cánh tay Vêrôních khá chặt.
- Corêgiu đâu? Anh ta đến đấy rồi lại đi ngay phải không? Sao anh ta không tìm chúng tôi? Việc ấy có khó khăn gì đâu... Rõ ràng anh ta cũng biết ba chúng tôi quay về đây. Hơn nữa cứ nghe bên ngoài có tiếng động nhỏ chúng tôi lại kêu ầm lên... Tại sao? Tại sao vậy?...
Vêrôních dè dặt không trả lời. Tuy nhiên nàng thấy chẳng có gì phải giấu giếm sự thật. Nàng tuyên bố:
- Hai chiếc thuyền đều bị đắm...
- Sao?
- Hai chiếc thuyền đều bị đắm. Tất cả những người trên thuyền đều chết, ngay trước thánh địa Pơriơrê, chỗ ra khỏi luồng “Ma quỷ...”
Vêrôních không nói thêm nữa. Nàng tránh không nhắc đến Phơrăngxoa và ông thầy dạy nó, tránh đả động đến hành vi của hai người. Nhưng bà xơ Cơlêmăng vụt đứng dậy mặt tái nhợt.
Giéctơruýt thì thào:
- Thế còn Honorin?
- Honorin chết rồi!
- Chết rồi!
Hai bà xơ cùng kêu lên một lúc rồi nhìn nhau im bặt. Những ý nghĩ giống nhau đang đập mạnh vào đầu óc các bà xơ. Các bà ngồi thừ suy nghĩ. Giéctơruýt đếm các đầu ngón tay như người ta làm tính nhẩm. Trên khuôn mặt các bà vẻ khϊếp sợ cứ tăng dần.
Cổ họng Giéctơruýt như nghẹn tắc vì sợ hãi. Bà ta cố dằn từng tiếng rất khẽ vừa nói vừa nhìn trừng trừng vào mắt Vêrôních.
- Này nhá... này nhá... tôi tính thử cho bà xem... Bà biết có bao nhiêu người trên thuyền? Hai mươi... bà biết không... Đây nhá, hai mươi cộng với Magơnốc chết đầu tiên... rồi ông Ăngtoan... cậu Phơrăngxoa và ông Xtêphan. Rồi đến Honorin và Mari Lơ Gôn... Nào bà tính đi... Tất cả là hai mươi sáu... hai mươi sáu... đúng không? Ba mươi trừ hai mươi sáu... bà hiểu chứ? Ba mươi chiếc quan tài nhất định phải có đủ... ba mươi trừ hai mươi sáu... còn bốn phải không? - Giéctơruýt không nói được nữa. Lưỡi líu lại. Tuy nhiên những tiếng khủng khϊếp cứ buột ra khỏi miệng bà xơ. Vêrôních nghe bà ta lắp bắp... - Hả... bà có hiểu không? Thế đấy... bốn chúng ta...
Chỉ còn bốn chúng ta trên đảo nữa thôi... bốn người đàn bà...
Vêrôních lặng lẽ nghe. Mặt hơi lấm tấm mồ hôi. Nhưng nàng nhún vai:
- Còn bốn chúng ta thì đã sao? Các bà sợ gì?
Vêrôních cảm thấy bực mình:
- Nhưng nếu tất cả chúng ta đều đi khỏi đây?
Giéctơruýt hốt hoảng:
- Bà nói khẽ chứ! Chúng nghe thấy đấy?
- Ai nghe thấy?
- Bọn chúng... những người ngày xưa...
- Người ngày xưa nào?
- Vâng. Những người chuyên làm lễ tế thần... chuyên gϊếŧ đàn ông, đàn bà... để làm vui lòng các vị thần linh của họ...
- Tất cả những chuyện đó đã chấm dứt từ lâu rồi. Các bà muốn nói các đạo sĩ dòng Gôloa phải không? Bây giờ làm gì còn đạo sĩ dòng Gôloa?
- Khẽ chứ! Bà nói khẽ chứ! Vẫn còn đấy... vẫn còn những hung thần.
- Họa chăng chỉ còn những linh hồn! - Vêrôních sắp nổi khùng bởi những chuyện mê tín dị đoan.
- Đúng, những linh hồn, nhưng đó là những linh hồn bằng xương, bằng thịt. Chúng có đủ hai bàn tay để đóng chặt cửa nhốt chúng tôi vào đây... Chúng nhấn chìm thuyền, gϊếŧ ông Ăngtoan, gϊếŧ Mari Lơ Gôn và những người khác. Chúng đã gϊếŧ hai mươi sáu...
Vêrôních im lặng. Chẳng có gì buộc nàng phải đối đáp với các bà xơ. Vì chính nàng biết rất rõ kẻ nào gϊếŧ ông Ăngtoan Đecgơmông, Mari Lơ Gôn và những người khác, kẻ nào nhận chìm hai chiếc thuyền...
Nàng hỏi:
- Các bà bị nhốt ở đây lúc mấy giờ?
- Lúc mười giờ rưỡi... Chúng tôi hẹn Corêgiu đúng mười một giờ tập trung ở trong làng để đi.