Chương 1: Mở Đầu

Đuôi sao chổi quét qua bầu trời lúc rạng đông, một vệt đỏ cắt ngang các vách đá lởm chởm của Dragonstone trông như một vết thương trên nền trời tím hồng.

Vị học sĩ đứng trên ban công lộng gió bên ngoài phòng ngủ. Đây là nơi lũ quạ thường tới sau khi bay một quãng đường dài. Phân quạ vương vãi trên những miệng máng xối trang trí cao tới ba, bốn mét ở hai bên, chúng có hình chó ngao và rồng bay, hai trong số hàng ngàn quái thú được dựng trên tường thành của pháo đài cổ này. Lần đầu tiên đến Dragonstone, đội quân tượng đá kỳ cục đó từng làm ông khó chịu, nhưng nhiều năm trôi qua và ông đã cảm thấy quen dần. Giờ ông coi chúng như những người bạn cũ. Cả ba cùng nhìn lên bầu trời như báo điềm chẳng lành.

Vị học sĩ không tin vào những điềm báo. Thế nhưng… dù đã ở tuổi này, Cressen chưa bao giờ nhìn thấy ngôi sao chổi nào sáng như vậy, với một màu kinh khủng, màu của máu, lửa, và hoàng hôn. Ông tự hỏi những máng xối kia đã từng nhìn thấy sao chổi như vậy bao giờ chưa. Chúng đã ở đây từ trước ông rất lâu rồi, và sẽ vẫn tiếp tục ở đây nhiều năm nữa sau khi ông ra đi. Giá mà tượng đá biết nói…

Điên rồ thật. Ông ngả người vào bức tường chắn răng cưa, dưới kia sóng biển đang vỗ ầm ì, và dưới những ngón tay ông là đá đen xù xì, thô ráp. Những miệng máng xối biết nói và điềm báo trên bầu trời. Ta là kẻ già nua sắp hoàn thành sứ mệnh của mình, giờ lại trở nên phù phiếm như thời con trẻ. Chẳng lẽ sự thông thái mà cả đời ông vất vả tích góp đã mất dần cùng với sức khỏe và sự dẻo dai của ông rồi sao? Ông là một học sĩ, được huấn luyện và gắn bó với Thành Citadel vĩ đại của Oldtown. Phải làm thế nào khi thứ mê tín dị đoan chiếm lấy trí óc, như thể ông chỉ là một gã nông dân dốt nát?

Nhưng… nhưng… giờ đây sao chổi thiêu đốt cả vào ban ngày, trong khi những cột hơi nước màu xám không ngừng phụt lên từ những miệng phun trên núi Dragonmont phía sau lâu đài, còn hôm qua một con quạ trắng từ Citadel tới mang theo những tin tức đã được tiên đoán từ lâu, nhưng cũng không kém phần đáng sợ báo hiệu mùa hè đã kết thúc. Điềm báo, tất cả đều là điềm báo. Quá nhiều điềm báo để có thể phủ nhận. Chúng có ý nghĩa gì? Chúng khiến ông muốn bật khóc.

“Maester Cressen, chúng ta có khách.” Pylos nói khẽ, như thể phải miễn cưỡng gián đoạn dòng suy tưởng uy nghiêm của Cressen. Nếu biết những điều ngớ ngẩn đang lấp đầy tâm trí ông thì có lẽ anh ta đã gào lên. “Công chúa muốn xem con quạ trắng.” Đúng rồi, giờ Pylos gọi con bé là công chúa vì cha con bé là vua. Vua của một tảng đá phụt hơi giữa đại dương mênh mông mặn mòi, nhưng vẫn là một vị vua. “Tên hề cũng đi cùng ạ.”

Vị học sĩ cao niên quay lưng về phía bình minh, một tay vẫn vịn trên con rồng bằng đá để có thể đứng vững.

“Giúp ta ngồi lên ghế và cho họ vào.”

Pylos giữ cánh tay ông và đỡ ông vào. Thời trai trẻ, Cressen rất hoạt bát, nhưng giờ ông đã gần 80 tuổi, chân ông yếu và không còn đứng vững nữa. Hai năm trước, có lần ông bị ngã vỡ một bên xương hông, và nó chưa bao giờ thực sự lành lại cả. Năm ngoái ông bị ốm, thành Citadel đã cử Pylos từ Oldtown tới đây, chỉ vài ngày trước khi Lãnh chúa Stannis cô lập hòn đảo nhỏ… để giúp việc cho ông. Đấy là họ nói thế, nhưng Cressen biết sự thật. Pylos tới đây để thay thế khi ông qua đời. Ông cũng chẳng quan tâm. Ai đó sẽ phải thay thế vị trí của ông, nhưng ông không nghĩ lại sớm đến vậy...

Chàng trai trẻ giúp ông ngồi sau chồng sách và đống giấy tờ trên bàn. “Đưa cô ấy lại đây. Thật khiếm nhã khi để một cô gái phải chờ đợi.” Ông phẩy tay, một cử chỉ lờ mờ của sự hối thúc từ người đàn ông đã không còn nhanh nhẹn nữa. Bàn tay ông đầy nếp nhăn và những chấm đồi mồi, làn da mỏng đến nỗi có thể nhìn thấy cả mạch máu và từng đốt xương bên dưới. Và chúng mới run rẩy làm sao, đôi bàn tay khéo léo và rắn chắc một thời…

***

Khi Pylos quay trở lại, cô gái tiến vào cùng anh ta với vẻ ngượng ngùng như thường lệ. Đằng sau cô, gã hề vừa lê chân vừa nhảy cóc những bước đi ngang kỳ cục. Trên đầu hắn là chiếc mũ hiệp sĩ làm nhái từ một cái xô thiếc, với đôi gạc hươu cắm lên trên và những chiếc chuông bò treo lủng lẳng. Mỗi bước đi lắc lư chòng chành của hắn lại làm chúng rung lên đủ âm sắc khác nhau: leng keng, coong coong, boong boong.

“Ai đến thăm chúng ta sớm vậy, Pylos?” Cressen hỏi.

“Là cháu và Sẹo, thưa Maester.” Đôi mắt xanh biếc ngây thơ khẽ chớp. Chao ôi, đó không phải là một khuôn mặt xinh đẹp. Cô bé sở hữu quai hàm vuông vức của cha và đôi tai chẳng phù hợp chút nào của mẹ, cùng với những nét xấu xí đó là dấu vết của căn bệnh da thịt hóa đá từng khiến cô suýt chết khi mới là đứa bé nằm trong nôi. Dọc một bên má xuống dưới, da cô khô cằn không chút sức sống, làn da nứt nẻ và tróc vảy với những đường vằn màu đen và xám, sờ vào có cảm giác cứng như đá. “Pylos nói chúng con có thể xem con quạ trắng.”

“Tất nhiên là được,” Cressen trả lời. Ông sẽ không bao giờ từ chối cô. Cô đã bị từ chối quá nhiều lần trong đời rồi. Tên cô là Shireen. Cô bé sẽ lên 10 trong ngày lễ đặt tên tiếp theo. Và cô là đứa trẻ bất hạnh nhất mà Maester Cressen từng biết. Nỗi buồn của cô là nỗi xấu hổ của ta, một dấu hiệu nữa của sự thất bại, ông nghĩ. “Maester Pylos, hãy giúp ta đem con chim từ lùm cây xuống đây cho tiểu thư Shireen.”

“Rất hân hạnh.” Pylos là một thanh niên lịch sự, tuổi không quá 25 nhưng lúc nào cũng trịnh trọng như một ông lão lục tuần. Giá mà cậu ta hài hước và nhiều sức sống hơn; đó là điều cần thiết ở đây. Những nơi tàn nhẫn cần được khuấy động bởi sự vui vẻ chứ không phải cung cách trang nghiêm. Và Dragonstone rõ ràng là nơi khốc liệt hơn cả, một thành trì cô độc chốn hoang vu ẩm ướt, bao quanh bởi bão tố và muối biển, thấp thoáng xa xa là dãy núi mờ bóng khói. Một học sĩ phải đến bất cứ nơi nào được cử đến, vì thế Cressen đã đến đây với lãnh chúa của mình khoảng 20 năm về trước; ông đã phục vụ người và làm rất tốt. Tuy nhiên, ông chưa bao giờ yêu thích Dragonstone, cũng chưa bao giờ thực sự cảm thấy nơi đây là nhà. Gần đây, khi bừng tỉnh từ những giấc mơ không dứt về hình ảnh nhạt nhòa của nữ tu đỏ, ông thường không biết mình đang ở đâu.

***

Gã hề quay về phía Pylos để nhìn anh trèo lên chiếc thang sắt dựng đứng bắc tới lùm cây. Mỗi cử động của cái đầu đầy những thứ hỗn độn lại làm bộ chuông kêu leng keng. “Chim dưới biển, lông thành vảy hết thảy,” leng keng, leng keng. “Ờ, ờ, biết rồi, biết rồi.”

Kể cả khi là một tên hề, Mặt Sẹo trông vẫn rất đáng thương. Có lẽ một thời hắn từng khiến người ta cười nghiêng ngả chỉ bằng một lời châm biếm, nhưng biển cả đã cướp mất điều đó cùng với một nửa sự dí dỏm và toàn bộ trí nhớ của hắn. Mặt Sẹo béo phì và yếu ớt, thường xuyên bị co giật, run rẩy rồi nói năng lảm nhảm. Giờ chỉ có cô bé cười khi hắn pha trò, là người duy nhất quan tâm liệu hắn sống hay chết.

Một cô gái xấu xí và một tên hề bất hạnh, thêm vị học sĩ này nữa là ba... giờ thì đã có một câu chuyện để lấy nước mắt của mọi người.

“Đến đây ngồi với ta.” Cressen vẫy tay gọi cô bé tới gần. “Con đến hơi sớm đấy, vừa mới bình minh mà. Đáng lẽ các con phải đang cuộn tròn trên giường mới phải.”

“Con gặp ác mộng,” Shireen kể với ông. “Về những con rồng. Chúng đến ăn thịt con.”

Theo Maester Cressen nhớ, cô bé đã luôn bị ám ảnh bởi những cơn ác mộng trong suốt một thời gian dài. “Chúng ta đã từng nói về chuyện này rồi,” ông nhẹ nhàng nói. “Những con rồng không có thật, chúng chỉ được khắc ở trên tường thôi. Ngày xưa, hòn đảo của chúng ta là tiền đồn cực tây của đế chế Valyria Freehold vĩ đại. Chính những người Valyria đã xây nên thành quách này, họ có muôn vàn cách tạo hình trên đá cho đến khi hòn đảo bị mất vào tay chúng ta. Mỗi tòa lâu đài cần phải có tháp canh đặt ở các góc để phòng thủ. Và người Valyria đã xây những tháp canh này thành hình những con rồng để pháo đài của họ trông đáng sợ hơn, cũng giống như việc họ trang trí các bức tường với hàng ngàn miệng máng xối hình đầu thú thay vì hình răng cưa đơn giản.” Đôi tay yếu ớt, lấm chấm đồi mồi của ông siết nhẹ bàn tay hồng hào nhỏ nhắn của cô bé. “Nên con thấy đấy, chẳng có gì phải sợ cả!”

Shireen không có vẻ gì là bị thuyết phục. “Thế còn thứ xuất hiện trên bầu trời thì sao? Dalla và Matrice nói chuyện bên cạnh giếng, và Dalla bảo cô ấy nghe nữ tu đỏ nói với mẹ rằng đó là hơi thở của rồng. Nếu những con rồng đang thở, không phải điều đó có nghĩa là chúng đang sống lại hay sao?”

Nữ tu đỏ, Maester Cressen chua xót nghĩ. Cô ta nhồi nhét vào đầu người mẹ những suy nghĩ điên rồ của mình là chưa đủ sao, còn đầu độc cả giấc mơ của con gái? Ông sẽ cảnh cáo Dalla, cấm cô ta không được tuyên truyền những câu chuyện như vậy nữa.

“Thứ xuất hiện trên trời là sao chổi, con ạ. Một ngôi sao có đuôi và đi lạc trên trời. Nó xuất hiện rồi biến mất nhanh chóng nên chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy nó lần thứ hai trong đời. Con cứ chờ mà xem.”

Shireen khẽ gật đầu một cách dũng cảm. “Mẹ nói những con quạ màu trắng báo hiệu mùa hè đã kết thúc.”

“Đúng rồi, tiểu thư của ta. Những con quạ trắng chỉ đến từ Citadel.” Những ngón tay Cressen lần lên sợi xích trên cổ, mỗi mắt xích được rèn từ một kim loại khác nhau biểu tượng cho một lĩnh vực kiến thức mà ông học được; sợi xích học sĩ là dấu ấn thể hiện tầng lớp xã hội của ông. Khi còn trai trẻ, ông đeo nó một cách dễ dàng, nhưng giờ đây dường như nó trở nên quá nặng nề, chuỗi kim loại chạm vào da ông lạnh buốt.

“Chúng là giống quạ to hơn hẳn các loài quạ khác, và cũng khôn hơn, chúng được nuôi chỉ để trao đổi những thông điệp cực kỳ quan trọng. Con quạ này đến để nói với chúng ta rằng Phiên Họp Kín đã diễn ra, trong đó những bản báo cáo và kết quả nghiên cứu của các học sĩ trên khắp vương quốc được cân nhắc, và họ tuyên bố mùa hè vĩ đại cuối cùng đã kết thúc. Một mùa hè kéo dài 10 năm, 2 tháng và 16 ngày. Một mùa hè dài nhất trong lịch sử.”

“Và bây giờ trời sẽ trở lạnh sao?” Shireen được sinh ra trong mùa hè và chưa bao giờ biết đến giá rét thực sự.

“Sắp rồi,” Cressen trả lời. “Nếu các vị thần rủ lòng thương, họ sẽ cho chúng ta một mùa thu ấm áp và mùa màng tươi tốt, để chúng ta có thể chuẩn bị cho mùa đông sắp tới.” Truyền thuyết nói một mùa hè dài đồng nghĩa với một mùa đông còn dài hơn thế, nhưng vị học sĩ cảm thấy không cần thiết phải dọa dẫm một đứa trẻ bằng những câu chuyện như vậy.

Mặt Sẹo lắc lắc những quả chuông của mình. “Dưới biển lúc nào cũng là mùa hè,” anh ta ngâm nga. “Mỹ nhân ngư cài cỏ chân ngỗng lên tóc và dệt áo choàng bằng rong biển bạc. Ờ ở, biết rồi, biết rồi.”

Shireen cười khúc khích. “Ta cũng thích một chiếc áo choàng bằng rong biển bạc đấy.”

“Tuyết rơi ngược từ đáy biển lên,” gã hề nói, “Mưa rơi xuôi không biết đi đâu hết. Ờ ờ, biết rồi, biết rồi.”

“Tuyết sẽ rơi thật chứ ạ?” cô bé hỏi.

“Đúng vậy,” Cressen trả lời. Nhưng ta cầu mong tuyết đừng rơi triền miên năm này qua năm khác, cũng đừng dày đặc. “À, Pylos với con quạ đây rồi.”

Shireen reo lên sung sướиɠ. Ngay cả Cressen cũng phải công nhận rằng con quạ vô cùng ấn tượng: nó trắng như tuyết và to hơn cả diều hâu, đôi mắt đen sáng bừng chứng tỏ nó không bị bệnh bạch tạng, mà là giống quạ trắng thuần chủng của Citadel. “Lại đây,” ông gọi. Con quạ xòe cánh liệng một vòng trên không trung, nó vỗ cánh phành phạch bay dọc căn phòng rồi đáp xuống chiếc bàn bên cạnh ông.

“Tôi sẽ chuẩn bị bữa sáng cho ngài,” Pylos thông báo.

Cressen gật đầu. “Đây là tiểu thư Shireen,” ông nói với con quạ. Nó gật gù cái đầu nhỏ nhắn như thể cúi chào và kêu: “Tiểu thư, tiểu thư.”

Đứa trẻ há hốc miệng. “Nó nói được kìa!”

“Vài từ thôi. Ta đã bảo những con chim này rất khôn mà.”

“Chim khôn, ông già khôn, lũ ngốc cũng khôn luôn,” Mặt Sẹo lúc lắc những chiếc chuông kêu đến nhức óc. “Ôi mấy thằng ngốc khôn ơi là khôn.” Hắn bắt đầu vừa hát vừa nhảy cò lò, hết chân này đổi sang chân khác. “Lãnh chúa à, nhảy đi lãnh chúa ơi! Màn đêm đen tới đây khiêu vũ rồi. Lãnh chúa à, ở lại đi lãnh chúa ơi, màn đêm đen vĩnh viễn chẳng xa rời.” Gã hề hát một câu lại giật mạnh cái đầu, khiến cho những quả chuông treo trên sừng hươu vang lên những tiếng lanh lảnh chói tai.

Con quạ trắng rít lên và đập cánh bay tới đậu trên lan can sắt của chiếc cầu thang trong bụi cây dành cho bầy quạ. Shireen khẽ thu người lại. “Lúc nào Mặt Sẹo cũng hát bài đó. Con đã bảo đừng hát nữa mà hắn không chịu. Bài hát làm con sợ lắm. Thầy bảo hắn dừng lại đi.”

Bắt hắn dừng bằng cách nào đây? Ông tự hỏi. Đáng ra ta đã có thể bắt gã hề này im miệng cả đời, nhưng giờ thì…

***

Mặt Sẹo đến với họ từ khi còn là một cậu bé. Ngày xưa, lãnh chúa Steffon tìm thấy cậu ta ở Volantis, bên kia bờ biển hẹp. Vị vua già Aerys II Targaryen ngày đó vẫn chưa điên loạn cho lắm – đã sai lãnh chúa của mình đi tìm một cô dâu cho hoàng tử Rhaegar, bởi hoàng tử không có người chị em nào để kết hôn. “Ta đã tìm thấy một tên hề vô cùng hay ho,” Steffon viết cho Cressen hai tuần trước khi ông quay về sau nhiệm vụ bất thành của mình. “Chỉ là một thằng nhóc, nhưng nhanh nhẹn như một con khỉ và thông minh bằng cả chục triều thần cộng lại. Cậu ta chơi tung hứng, giải đố, làm phép thuật và có khả năng ca hát tuyệt vời bằng bốn chất giọng khác nhau. Chúng ta mang tự do tới cho thằng bé, và hy vọng có thể đem theo thằng bé về nhà. Robert chắc chắn sẽ thích, và có lẽ nó sẽ biết cách chọc Stannis cười.”

Nhớ lại bức thư đó khiến Cressen buồn lòng. Chẳng ai có thể làm cho Stannis cười, huống chi là một cậu nhóc như Mặt Sẹo. Cơn bão đến bất thình lình, gào thét, và Vịnh Đắm Thuyền đã chứng minh cái tên của nó. Chiếc thuyền ga-lê hai buồm mang tên Ngọn Gió Kiêu Hãnh của lãnh chúa Steffon vỡ tan khi chỉ còn cách lâu đài một đoạn. Từ trên tường thành, hai người con trai lớn của ông đã nhìn thấy chiếc thuyền xô vào đá vỡ tan tành và bị nuốt trọn bởi biển nước. Một trăm người chèo thuyền và thủy thủ bị nhấn chìm cùng với lãnh chúa Steffon Baratheon và vợ. Rồi những ngày sau đó, mỗi đợt thủy triều lên lại đem theo những cái xác trương phềnh dạt vào bờ biển dưới lâu đài Storm’s End.

Cậu bé dạt lên bờ vào ngày thứ ba. Maester Cressen đã cùng tất cả mọi người xuống bờ biển để nhận diện xác người chết. Khi họ tìm thấy chàng hề, cậu ta không có lấy một mảnh vải trên người, da dẻ trắng bệch, nhăn nhúm, và dính đầy cát ướt. Cressen tưởng cậu ta cũng chỉ là một cái xác, nhưng khi Jornmy nắm lấy cổ chân cậu ta và kéo lên xe chở xác, cậu bé bỗng ho sặc sụa tống hết nước và cát ra khỏi miệng. Đến tận lúc chết, Jornmy vẫn thề rằng ngày đó da thịt Mặt Sẹo đã lạnh toát.

Không ai có thể giải thích được hai ngày đó anh chàng đã mất tích ngoài biển như thế nào. Các ngư dân thích thêu dệt câu chuyện về một nàng tiên cá đã dạy cậu ta cách thở dưới nước để đổi lấy hạt giống của cậu. Còn bản thân Mặt Sẹo thì chẳng nói lời nào. Cậu bé thông minh, khéo léo mà lãnh chúa Steffon đã viết trong thư chẳng bao giờ đến được Storm’s End; Mặt Sẹo mà họ tìm thấy là một người hoàn toàn khác, cả cơ thể và trí óc đều trở thành tàn phế, hầu như không thể nói được, và trí khôn lại càng không có. Thế nhưng, khuôn mặt cậu đã thể hiện lai lịch của mình một cách rõ ràng. Những người ở Thành Phố Tự Trị Volantis thích xăm lên mặt các nô ɭệ và người hầu của họ; và từ cổ lên đến đầu, da cậu bé được xăm hình ô bàn cờ với hai màu đỏ và xanh xen kẽ.

“Cậu bé tức giận, đau đớn và thấy mình vô dụng, vô dụng ngay cả với chính bản thân mình,” hiệp sĩ già Harbert, người cai quản lâu đài Storm’s End trong những năm đó nói. “Việc tốt nhất ngài có thể làm là cho cậu ta một cốc sữa anh túc. Một giấc ngủ không đau đớn sẽ chấm dứt tất cả mọi chuyện. Cậu ta hẳn sẽ van xin ngài để được như vậy nếu còn đủ trí khôn để làm điều đó.” Nhưng Cressen phản đối, và cuối cùng ông đã chiến thắng. Cho đến bây giờ, rất nhiều năm sau khi chuyện xảy đó, ông cũng không rõ Mặt Sẹo có vui vẻ tí nào trước chiến thắng đó hay không.

“Lãnh chúa à, nhảy đi lãnh chúa ơi! Màn đêm đen tới đây khiêu vũ rồi,” gã hề tiếp tục hát, đầu hắn xoay tròn khiến cho những quả chuông va vào nhau rung lên loong coong, leng keng, boong boong.

“Lãnh chúa,” con quạ trắng thét lên theo. “Lãnh chúa, lãnh chúa, lãnh chúa.”

“Một gã hề có thể hát bất cứ cái gì anh ta muốn,” vị học sĩ trấn an cô công chúa nhỏ đang lo lắng. “Cháu đừng để tâm vào những lời đó. Có thể hôm sau anh ta lại nhớ ra một bài hát khác, và cháu sẽ không bao giờ nghe thấy bài này nữa.” Hắn có thể hát rất hay bằng bốn thứ giọng khác nhau, lãnh chúa Steffon đã viết như vậy...

Pylos bước qua cửa. “Maester, phiền ngài một chút.”

“Cậu quên đem theo cháo yến mạch rồi,” Cressen đùa vui. Điều này không giống Pylos chút nào.

“Maester, đêm qua Ser Davos đã trở lại. Họ đang nói về chuyện đó trong bếp. Tôi nghĩ ngài sẽ muốn biết việc này ngay lập tức.”

“Davos... cậu nói là đêm qua à? Ông ta đâu?”

“Đang ở cùng với đức vua. Hầu như đêm nào họ cũng ở cùng nhau.”

Đã có thời lãnh chúa Stannis luôn đánh thức ông bất kể lúc nào để bàn bạc và hỏi ý kiến ông. “Đáng lẽ ta phải được thông báo chứ,” Cressen phàn nàn. “Họ phải gọi ta mới đúng.” Ông gỡ tay ra khỏi bàn tay Shireen. “Xin lỗi nhé, tiểu thư của ta, nhưng ta phải nói chuyện với cha cháu một lúc. Pylos, đưa tay cho ta nào. Lâu đài này có quá nhiều bậc thang, và đối với ta, dường như sau mỗi đêm nó lại thêm vài bậc, thật khiến ta phiền lòng.” Shireen và Mặt Sẹo theo họ ra ngoài, nhưng cô bé nhanh chóng vượt lên trước vì không chịu được bước đi chậm chạp, run rấy của một ông già, gã hề ngốc nghếch đi theo cô trong tiếng chuông kêu inh tai nhức óc.

Những tòa lâu đài không phải là nơi thân thiện với kẻ yếu ớt, Cressen nghĩ khi đang bước xuống cầu thang xoắn ốc trong Tháp Rồng Biển. Lãnh chúa Stannis sẽ ở trong căn phòng có Bàn Vẽ, ngay phía trên tháp Trống Đá – tháp trung tâm của Dragonstone. Sở dĩ nó được đặt tên như vậy vì các bức tường cổ thường kêu ầm ầm như sấm động khi có bão. Để đến được chỗ lãnh chúa, họ phải đi qua một hành lang, băng qua hàng lớp tường thành trong ngoài được trang trí bằng những máng xối hình quái thú, và qua một chiếc cổng sắt màu đen, rồi quãng đường đi lên cũng nhiều bậc hơn Cressen tưởng. Những người trẻ có thể bước hai bậc một, nhưng với ông già xương cốt lỏng lẻo thì mỗi bậc thang cứ như một sự tra tấn. Nhưng lãnh chúa Stannis sẽ không chịu tới gặp ông, nên vị học sĩ đành phải cam chịu khó khăn. Ông có Pylos giúp đỡ, và ít nhất, ông cũng rất biết ơn về điều đó.

Dọc hành lang, họ đi qua một dãy cửa sổ hình vòm cao nhìn ra khung cảnh rộng ngút ngàn bên ngoài tường thành và cả làng chài ở phía đằng xa. Trên sân, các cung thủ đang tập bắn vào bia, trên đó có ba mức: “thắng, hòa, thua.” Mũi tên của họ phát ra âm thanh như đàn chim cùng đập cánh một lúc. Đám lính canh đi đi lại lại trên tường thành, chăm chú quan sát giữa các máng xối, hướng về phía không có doanh trại lính. Không gian buổi sáng mờ mịt khói từ các bếp ăn, trong khi ba nghìn người đàn ông cùng ngồi ăn sáng dưới những lá cờ của chủ nhân họ. Qua trại lính lộn xộn đó là bến cảng với vô số những chiếc thuyền đang neo đậu. Không chiếc thuyền nào tới gần Dragonstone trong nửa năm qua được phép quay trở lại. Con thuyền Thịnh Nộ của lãnh chúa Stannis, một chiếc thuyền chiến ba tầng có ba trăm người phục vụ, trông vẫn thật nhỏ bé bên cạnh những chiếc tàu vuông lớn xung quanh.

***

Lính gác bên ngoài Tháp Trống Đá đều biết vị học sĩ nên đã để họ đi qua.

“Đợi ở đây,” Cressen nói với Pylos. “Tốt nhất là ta nên gặp ngài ấy một mình.”

“Đó là quãng đường khá dài đấy, Maester.”

Cressen mỉm cười. “Ngươi nghĩ ta quên được sao? Ta đã leo chúng nhiều đến nỗi thuộc lòng cả rồi.”

Leo được nửa đường, ông bắt đầu hối hận vì quyết định của mình. Khi dừng lại để thở và chờ hai bên hông đỡ đau nhức, ông nghe thấy tiếng giày nện trên nền đá, và trước mặt ông là Ser Davos Seaworth đang đi xuống.

Davos là một người đàn ông mảnh dẻ, xuất thân thấp kém hiện rõ trên khuôn mặt bình dân. Trên vai ông ta là chiếc áo choàng xanh đã cũ, bạc màu bởi muối, nước biển, và ánh mặt trời; bên trong là chiếc áo chẽn và quần ống túm màu nâu rất hợp với màu mắt và mái tóc nâu. Davos đeo trên cổ một chiếc túi nhỏ bằng da đã cũ, với dây đeo cũng bằng da. Bộ râu nhỏ điểm những sợi màu muối tiêu, và ông ta đeo găng tay da trên bàn tay trái bị tàn tật của mình. Khi nhìn thấy Cressen, ông ta dừng lại.

“Ser Davos,” vị học sĩ nói. “Ngài trở về từ khi nào vậy?”

“Sớm nay khi trời còn đang tối. Đó là thời điểm ưa thích của tôi.” Người ta nói rằng không ai có thể điều khiển thuyền vào ban đêm tốt như Davos Cụt Tay. Trước khi lãnh chúa Stannis phong cho ông ta tước hiệp sĩ, ông ta từng là một trong những tên buôn lậu khét tiếng lẫy lừng nhất khắp Bảy Phụ Quốc.

“Và mọi chuyện thế nào?”

Người đàn ông lắc đầu. “Đúng như ngài đã cảnh báo ông ấy. Họ sẽ không nổi dậy, Maester. Không phải vì ông ấy. Họ không yêu quý ông ấy.”

Không phải, Cressen nghĩ. Họ sẽ không bao giờ yêu quý nổi Lãnh chúa Stannis. Ông ấy mạnh mẽ, có tài... chỉ có điều không thông minh xuất chúng... thế nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Chưa bao giờ là đủ cả. “Ngài đã nói chuyện với tất cả bọn họ chưa?”

“Tất cả? Chưa. Chỉ những người gặp tôi thôi. Họ cũng không yêu quý gì tôi, mấy gã quý tộc. Đối với họ tôi luôn là Hiệp sĩ Củ Hành.” Ông ta nắm chặt bàn tay trái, những ngón tay ngắn ngủn khóa lại thành một nắm đấm; Stannis đã chặt các đốt cuối cùng của bàn tay ấy, trừ ngón cái. “Tôi đã dùng bữa với Gulian Swann và ông già Penrose, và nhà Tarths đã đồng ý tham dự cuộc gặp lúc nửa đêm trong một khu rừng nhỏ. Còn những người khác, Beric Dondarrion thì mất tích, một số người nói anh ta đã chết, lãnh chúa Caron lại liên minh với Renly. Bryce Da Cam giờ là chiến binh trong đội vệ binh Cầu Vồng.”

“Đội Vệ Binh Cầu Vồng?”

“Renly đã tự lập đội Ngự Lâm Quân cho riêng mình,” kẻ buôn lậu một thời trả lời, “nhưng bảy người này không mặc màu trắng. Mỗi người trong số họ có một màu khác nhau. Loras Tyrell là chỉ huy của họ.”

Đó đúng là một khái niệm hấp dẫn đối với Renly Baratheon; một trật tự mới đối với tầng lớp hiệp sĩ, kiểu y phục lộng lẫy mới mẻ đã chứng minh điều đó. Ngay từ khi còn là một cậu bé, Renly đã thích màu sáng và vải vóc sặc sỡ, cậu ta cũng yêu thích những trò chơi của mình. “Nhìn ta này!” cậu bé vừa cười vừa hò hét, chạy khắp các sảnh của Tháp Storm’s End. “Nhìn này, ta là rồng,” hoặc “Nhìn này, ta là thầy phù thủy,” hoặc “Nhìn ta này, nhìn ta này, ta là thần mưa.”

Cậu bé mập mạp với mái tóc đen bù xù và đôi mắt biết cười ấy giờ đã là một người đàn ông trưởng thành. Hai mươi mốt tuổi, và cậu ấy vẫn đang chơi trò chơi của mình. Nhìn này, ta là vua, Cressen buồn rầu nghĩ. Ôi, Renly, Renly, cậu bé ngoan, cậu có biết mình đang làm gì không? Và nếu biết, cậu có quan tâm chút nào không? Liệu có ai quan tâm đến cậu ấy như ta không? “Lý do các lãnh chúa đưa ra để từ chối là gì vậy?” ông hỏi hiệp sĩ Davos.

“À, họ thường giải thích quanh co, một số người thì nói thẳng, vài người đưa ra lý do để cáo lỗi, hoặc hứa hẹn, và có người lại chỉ nói dối.” Ông ta nhún vai. “Cuối cùng cũng là lời nói gió bay thôi.”

“Ngài không thể đem cho Stannis một chút hy vọng nào sao?”

“Nếu có cũng chỉ là giả dối, tôi sẽ không làm như vậy,” Davos nói. “Ngài ấy cần được nghe sự thật.”

Maester Cressen vẫn nhớ ngày Davos được phong hiệp sĩ, sau khi Storm’s End bị bao vây. Lãnh chúa Stannis và một nhóm binh lính trong thành đã cố thủ được gần một năm, chống lại đạo quân hùng hậu của lãnh chúa Tyrell và Redwyne. Cả phía bờ biển cũng bị canh giữ ngày đêm bởi Redwyne và đoàn thuyền chiến cắm những lá cờ màu đỏ tía bay phấp phới của nhà Arbor. Trong Storm’s End, những con ngựa bị đem ra gϊếŧ thịt từ lâu, chó và mèo cũng vậy. Đội quân trong thành đã phải ăn cả chuột và rễ cây. Cho đến một đêm khi trăng khuyết và sao trời bị che phủ bởi mây đen, ẩn trong màn đêm đó, tên buôn lậu Davos đã vượt qua hàng rào vệ binh của Redwyne và những rặng đá trên Vịnh Đắm Thuyền. Chiếc thuyền nhỏ của hắn có màu đen, cánh buồm đen, tay chèo cũng màu đen và chở đầy ắp củ hành tây và cá biển. Dù ít ỏi nhưng nó đủ để duy trì sự sống cho đội quân trong thành, cho đến khi Eddard Stark tới Storm’s End và phá vỡ vòng vây.

Lãnh chúa Stannis đã thưởng cho Davos vùng đất màu mỡ Cape Wrath, một tòa thành nhỏ, và tước hiệp sĩ... nhưng ông ta cũng sẽ phải chịu cắt bỏ một đốt trên mỗi ngón tay để trả giá cho quá khứ buôn lậu của mình. Davos đồng ý, với điều kiện Stannis phải thân chinh cắt những đốt tay của ông; ông không cho phép bất cứ ai khác thi hành hình phạt này. Vị lãnh chúa đã dùng một con dao pha của hàng thịt để có thể cắt ngọt và chính xác. Sau cùng, Davos đã chọn cái tên Seaworth cho ngôi nhà mới của mình, và trên lá cờ của ông có hình một con thuyền đen trên nền xám, với hình củ hành trên cánh buồm. Kẻ buôn lậu một thời vẫn hay nói rằng lãnh chúa Stannis thực ra đã giúp đỡ ông ta bỏ bớt bốn cái móng tay, để ông đỡ công cắt tỉa và vệ sinh chúng mỗi ngày.

Không, Cressen nghĩ, một người đàn ông như thế sẽ không đời nào đem lại những niềm hy vọng giả tạo, cũng không bao giờ nói giảm nói tránh, dù sự thật có khó lòng chấp nhận. “Ser Davos, sự thật có thể là một liều thuốc đắng, ngay cả đối với một người như lãnh chúa Stannis. Ông ấy chỉ chăm chăm nghĩ đến việc trở lại Vương Đô để nắm quyền, đánh bại kẻ thù và lấy lại những gì đáng ra phải thuộc về mình. Nhưng bây giờ…”

“Nếu ông ấy đem đạo quân nghèo nàn này tới Vương Đô, thì đó là đâm đầu vào chỗ chết. Vấn đề của ông ấy là số lượng. Tôi đã khuyên ông ấy rất nhiều, nhưng ông cũng biết niềm kiêu hãnh của lãnh chúa rồi đấy.” Davos giơ bàn tay đeo găng lên. “Nếu Lãnh chúa Stannis mà nghe lời thì chắc các ngón tay của tôi cũng mọc lại mất!”

Ông già thở dài. “Ngài đã làm tất cả những gì có thể. Giờ tôi và ngài phải cùng lên tiếng.” Ông lại tiếp tục trèo lên các bậc thang một cách mệt mỏi.

***

Nơi ở của lãnh chúa Stannis Baratheon là một căn phòng hình tròn vĩ đại, với những bức tường được xây hoàn toàn bằng đá đen, trên đó là bốn cửa sổ cao nhìn ra bốn hướng của la bàn. Căn phòng được đặt tên theo một chiếc bàn lớn đặt ở chính giữa phòng: một phiến gỗ khổng lồ được chạm khắc theo yêu cầu của Aegon Targaryen trước khi Cuộc Chinh Phạt diễn ra. Bàn Vẽ dài hơn mười lăm mét, đoạn phình ra to nhất rộng bằng một nửa chiều dài, và đoạn hẹp nhất chỉ khoảng một mét. Các thợ mộc của Aegon mô phỏng chiếc bàn theo hình mảnh đất Westeros với đủ các vịnh, quần đảo, đến mức cạnh bàn không còn chỗ nào là đường thẳng. Trên mặt bàn, sau lớp véc-ni 300 năm tuổi đã xỉn màu là bức tranh của Bảy Phụ Quốc thời Aegon trị vì; sông và núi, lâu đài và thành quách, hồ nước và rừng cây.

Chỉ có một chiếc ghế duy nhất trong phòng được đặt cẩn thận ở đúng vị trí của đảo Dragonstone ngoài biển Westeros, và được đặt cao để từ đó có thể nhìn thấy rõ các điểm trên mặt bàn. Trên chiếc ghế đó là một người đàn ông trong chiếc áo chẽn bằng da bó sát và chiếc quần ống túm được bện bằng len màu nâu. Khi Maester Cressen bước vào, ngài ngẩng lên. “Ta biết ông sẽ đến mà, ông già, cho dù ta có triệu tập ông hay không.” Từ trước đến nay, chẳng có chút ấm áp nào trong giọng nói của vị lãnh chúa.

Stannis Baratheon, Lãnh chúa của vùng Dragonstone và là người thừa kế hợp pháp Ngai Sắt của Bảy Phụ Quốc tại Westeros, là một người đàn ông có đôi vai rộng và thân hình vạm vỡ, khuôn mặt nghiêm nghị và làn da săn chắc như thể da thuộc được phơi lâu ngày dưới ánh nắng mặt trời. Khắc nghiệt là từ mà mọi người thường dùng để nói về Stannis, và đúng như vậy. Mặc dù chưa đến 35 tuổi nhưng ngài chỉ còn một vạt tóc đen mỏng trên đầu, tạo thành một vòng tròn sau mang tai trông như bóng dáng của một chiếc vương miện. Anh trai ngài, vua Robert trước đây, đã để râu trong những năm cuối đời. Maester Cressen chưa bao giờ được chiêm ngưỡng bộ râu ấy, nhưng người ta nói chúng trông rất hoang dã, rậm rạp và dữ tợn. Như để đáp trả, Stannis để bộ râu ngắn và gọn gàng, chỉ là một vệt tối xanh đen trên quai hàm vuông vức và trên hõm má của ngài. Đôi mắt ngài trông như hai vết thương hở bên dưới đôi lông mày rậm, có màu xanh thẳm như biển đêm. Miệng ngài có thể đem đến sự tuyệt vọng cho cả những tên hề kỳ cục nhất; dường như nó được tạo ra để cau có, giận dữ và để đưa ra những mệnh lệnh sắc bén, đôi môi mỏng xanh xám và những múi cơ đan vào nhau, một khuôn miệng đã quên mất cách mỉm cười và chưa bao giờ biết phá lên cười giòn giã. Thỉnh thoảng trong màn đêm vô cùng im ắng và tĩnh mịch, Maester Cressen tưởng như ông có thể nghe thấy tiếng nghiến răng của lãnh chúa Stannis từ phía bên kia lâu đài vọng lại.

“Ngày xưa ngài vẫn thường đánh thức thần dậy,” người đàn ông già nói.

“Ngày đó ông còn trẻ. Giờ ông đã già cả và ốm yếu, ông cần được nghỉ ngơi”. Stannis chưa bao giờ biết cách nói năng nhẹ nhàng, để che đậy điều gì đó hay nịnh nọt; ngài nói những gì ngài nghĩ, và những người không thích chúng có thể thấy vô cùng đáng ghét. “Ta biết ông đã nghe Davos nói chuyện từ trước. Ông lúc nào cũng vậy, đúng không?”

“Nếu không làm vậy, thần sẽ chẳng giúp được gì cho ngài,” Cressen nói. “Thần gặp Davos dưới cầu thang.”

“Và ta đoán ông ta đã nói tất cả? Đáng lẽ ngoài mấy ngón tay, ta nên cắt luôn cả lưỡi của hắn nữa nhỉ.”

“Vậy thì người đại diện của ngài sẽ trở nên vô dụng quá.”

“Thì đằng nào hắn cũng là một người đại diện vô dụng mà. Các lãnh chúa không đứng về phía ta. Dường như họ không thích ta, và công lý trong trường hợp của ta chẳng có ý nghĩa gì với họ cả. Lũ hèn nhát thì núp sau tường thành chờ gió chiều nào theo chiều ấy. Còn những kẻ dũng cảm thì đã tuyên bố theo phe Renly rồi. Theo phe Renly!” Cái tên bật ra khỏi miệng Stannis như thể chất độc dính trên lưỡi ngài vậy.

“Em trai ngài đã là lãnh chúa của Storm’s End suốt ba thập kỷ nay. Các tiểu lãnh chúa đều là những kẻ trung thành dưới trướng cậu ấy…”

“Cậu ấy,” Stannis chen vào, “trong khi theo lẽ thường thì chúng phải thuộc về ta. Ta chưa bao giờ xin được cai quản Dragonstone. Ta chưa bao giờ muốn có nó. Ta chỉ nhận nó vì kẻ thù của Robert ở đây và anh ấy ra lệnh cho ta tống cổ chúng đi. Ta xây dựng quân đội cho anh ấy, làm việc cho anh ấy, giống như trách nhiệm của một người em phải làm đối với anh trai, và đáng lẽ Renly cũng phải như vậy đối với ta. Nhưng Robert đã cảm ơn ta như thế nào? Ông ấy phong cho ta là lãnh chúa của Dragonstone rồi trao Storm’s End cùng toàn bộ quốc khố cho Renly. Storm’s End đã thuộc về dòng họ Baratheon suốt ba trăm năm; và theo quy định nó phải được trao cho ta khi Robert có được Ngai Sắt.”

Đó là lời phàn nàn cũ rích nhưng chân thành, và chưa bao giờ chân thành như lúc này. Điểm yếu trong trái tim lãnh chúa của ông chính là Dragonstone, dù có sức mạnh và lịch sử lâu đời thì liên minh của một nhóm lãnh chúa nhỏ bé trên hòn đảo đầy sỏi đá này cũng không cung cấp đủ số người mà Stannis cần. Cộng với đám lính đánh thuê ngài đem về từ thành phố tự trị Myr và Lys bên kia biển hẹp thì đạo quân của ngài ngoài kia vẫn quá nhỏ bé để đối chọi với sức mạnh của Nhà Lannister.

“Robert đã không công bằng với ngài,” Maester Cressen trả lời một cách thận trọng, “tuy nhiên ông ấy có những lý do riêng. Dragonstone đã thuộc về Nhà Targaryen trong một thời gian dài. Ông ấy cần sức mạnh của một người đàn ông để trị vì chốn này, và Renly lúc đó chỉ là một đứa trẻ.”

“Đến giờ nó vẫn chỉ là một đứa trẻ,” Stannis nói, nỗi giận dữ của ngài vang vọng khắp căn phòng trống, “một đứa nhóc ăn cắp vặt, nó nghĩ có thể giật lấy vương miện từ trên trán ta. Renly đã làm gì để có được ngôi báu? Nó ngồi trong hội đồng và đùa bỡn với Ngón Út, và trong các cuộc đấu ngựa, nó khoác lên người những bộ giáp lộng lẫy để rồi cho phép mình ngã ngựa trước một kẻ giỏi hơn. Đó là tất cả những gì về em trai ta, Renly, kẻ nghĩ rằng mình phải là một vị vua. Ta hỏi ông, tại sao các vị thần lại gây cho ta vết thương từ anh em ruột thịt của mình?”

“Thần không thể trả lời thay các vị thần được.”

“Ta thấy dường như bây giờ ông hiếm khi trả lời một câu nào cả. Ai là cố vấn cho Renly? Có lẽ ta nên triệu tập hắn, có thể ta thích cố vấn của em ta hơn đấy. Ông nghĩ gã học sĩ đó nói thế nào khi em trai ta quyết định đánh cắp vương miện của ta? Đồng nghiệp của ông đã tư vấn điều gì cho kẻ phản bội cùng dòng máu với ta thế?”

“Thần sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu Lãnh chúa Renly sử dụng một cố vấn, thưa bệ hạ.” Cậu út trong ba con trai của lãnh chúa Steffon đã lớn và trở thành một chàng trai dũng cảm, nhưng lại thiếu tập trung. Cậu ấy hành động dựa trên cảm tính chứ không tính toán. Trong trường hợp này, và cũng như mọi khi, tính cách của Renly giống như người anh trai Robert của mình, và chẳng có điểm nào giống với Stannis cả.

“Thưa bệ hạ,” Stannis nhắc lại một cách cay đắng. “Ông nói móc ta bằng danh xưng dành cho một vị vua, nhưng ta là vua của cái gì cơ chứ? Dragonstone và một vài hòn đá trên biển hẹp, vương quốc của ta đấy.” Stannis bước xuống ghế và đứng trước bàn, bóng ngài đổ xuống hình vẽ cửa sông Xoáy Nước Đen và khu rừng nơi mà hiện giờ là Vương Đô. Ngài đứng đó, nghiền ngẫm về vương quốc mà ngài có tham vọng thống trị, gần ngay trước mặt mà xa tận chân trời. “Tối nay ta sẽ dùng bữa với các lãnh chúa của ta. Celtigar, Velaryon, Bar Emmon, và một số người nữa. Dù chỉ là một nhóm người ít ỏi tội nghiệp, nhưng đó là tất cả những gì anh em để lại cho ta. Cướp biển vùng Lysene, Salladhor Saan, với tấm thẻ ghi món nợ gần đây nhất mà ta đang nợ hắn, và Morosh đến từ Thành Phố Tự Trị Myr sẽ cảnh báo ta về thủy triều với bão mùa thu, trong khi Lãnh chúa Sunglass suốt ngày lẩm nhẩm ca tụng ý chí của Bảy Vị Thần. Celtigar sẽ muốn biết những lãnh chúa nào sẽ theo phe chúng ta. Velaryon lại dọa dẫm đòi đưa quân về nếu chúng ta không nổi dậy ngay lập tức. Ta phải nói với họ thế nào đây? Bây giờ ta phải làm sao?”

“Kẻ thù thực sự của ngài là Nhà Lannisters, thưa lãnh chúa,” Maester Cressen trả lời. “Nếu ngài và em trai liên minh để chống lại họ…”

“Ta sẽ không thỏa hiệp với Renly,” Stannis nói giọng vô cùng cương quyết. “Không đời nào khi hắn còn tự nhận mình là vua.”

“Không phải Renly, vâng,” vị học sĩ nhượng bộ. Lãnh chúa của ông quá cứng đầu và có lòng tự tôn rất cao; khi ngài đã quyết định thì không cách nào thay đổi được. “Những người khác cũng có thể phục vụ ngài. Con trai của Eddard Stark đã xưng Vua Phương Bắc, và đằng sau cậu ta là toàn bộ sức mạnh của Winterfell và Riverrun.”

“Một thằng nhóc vắt mũi chưa sạch,” Stannis nói, “lại một vị vua bù nhìn nữa. Ta mà phải chấp nhận một vương quốc chia năm sẻ bảy hay sao?”

“Rõ ràng là một nửa vương quốc còn tốt hơn không có gì,” Cressen nói, “và nếu ngài giúp cậu bé trả mối thù gϊếŧ cha…”

“Tại sao ta phải trả thù cho Eddard Stark? Hắn chẳng là gì với ta cả. À, Robert yêu quý hắn, chắc chắn rồi. Họ yêu quý nhau như anh em ruột thịt, ta đã nghe điều đó bao nhiêu lần rồi nhỉ? Ta là em ruột của ông ấy, chứ không phải Ned Stark, nhưng nhìn cách ông ấy đối xử với ta thì chẳng ai có thể nhận ra điều đó. Ta cố thủ Storm’s End cho ông ấy, chứng kiến những binh lính thiện chiến của ta chết đói trong khi Mace Tyrell và Paxter Redwyne tiệc tùng linh đình phía ngoài thành. Robert có cảm ơn ta không? Không. Ông ấy cảm ơn Stark vì đã phá vỡ vòng vây khi chúng ta ở bên trong phải ăn thịt chuột và củ cải. Ta gây dựng một đạo quân theo yêu cầu của Robert, nhận cai quản Dragonstone vì ông ấy. Nhưng ông ấy không hề nắm tay ta và nói: Làm tốt lắm, em trai, ta không thể làm được gì nếu không có cậu. Không, ông ấy đổ lỗi cho ta vì đã để Willem Darry đánh cắp Viserys và đứa bé, cứ như ta đã có thể ngăn chặn điều đó vậy. Ta ngồi trong hội đồng của ông ấy suốt mười lăm năm, giúp Jon Arryn trị vì vương quốc khi Robert còn mải uống rượu và chơi gái, nhưng khi Jon qua đời, anh trai ta có phong cho ta làm Quân sư không? Không, ông ấy quay sang người bạn thân của mình là Ned Stark, và trao cho hắn vinh dự đó. Thế là bọn họ đôi bên cùng có lợi.”

“Xin lãnh chúa hãy chấp nhận điều đó,” Maester Cressen nhẹ nhàng nói. “Ngài đã phải chịu đựng những bất công lớn, nhưng quá khứ chỉ là tro bụi. Tương lai có thể chiến thắng nếu ngài hợp sức với nhà Stark. Ngoài ra còn có nhiều người khác mà ngài nên thử thương thuyết xem sao. Phu nhân Arryn thì sao? Nếu hoàng hậu gϊếŧ chết chồng bà ấy, thì chắc chắn bà ấy muốn đòi lại công lý cho chồng. Bà ấy có một cậu con trai nhỏ tuổi, người kế thừa của Jon Arryn. Nếu ngài gả Shireen cho cậu ấy…”

“Thằng bé yếu ớt và ốm đau suốt ngày,” Lãnh chúa Stannis phản đối. “Ngay cả cha cậu ta cũng nhận ra điều đó, khi ông ấy nhờ ta đem nó về Dragonstone nuôi nấng. Làm một người phục vụ có lẽ hợp với cậu ta hơn, nhưng ý định đó chưa kịp thực hiện thì mụ đàn bà khốn kiếp Nhà Lannister đã đầu độc Lãnh chúa Arryn, và giờ Lysa đang giấu thằng bé ở Eyrie. Cô ta sẽ không bao giờ rời xa nó đâu, ta dám chắc điều đó đấy.”

“Vậy thì ngài phải đưa Shireen đến Nhà Eyrie,” vị học sĩ thúc giục. “Dragonstone là ngôi nhà quá khắc nghiệt đối với một đứa trẻ. Hãy để gã hề đi với tiểu thư, để cô bé có người thân quen bên cạnh.”

“Thân quen và gớm ghiếc.” Stannis nhíu mày suy nghĩ. “Tuy nhiên... có lẽ cũng phải thử xem sao...”

“Người trị vì chính đáng của Bảy Phụ Quốc mà phải cầu xin sự giúp đỡ của mấy góa phụ và những kẻ đối nghịch hay sao?” Giọng đanh sắc của một người phụ nữ cất lên.

Maester Cressen quay đầu cúi chào. “Thưa phu nhân,” ông có vẻ thất vọng vì không nghe thấy tiếng phu nhân bước vào.

Lãnh chúa Stannis giận dữ. “Ta không cầu xin. Bất cứ ai. Nàng hãy nhớ cho điều đó.”

“Em rất vui khi nghe điều đó, thưa ngài.” Phu nhân Selyse cao lớn không kém gì chồng, thân hình mảnh dẻ và khuôn mặt mỏng quẹt với đôi tai lớn, chiếc mũi sắc nét và một hàng râu lờ mờ ở môi trên. Bà nhổ nó hằng ngày và thường xuyên nguyền rủa nó, nhưng nó vẫn không ngừng mọc lên. Bà ta có đôi mắt xám nhạt màu, khuôn miệng nghiêm nghị và giọng nói đanh thép. Bà lại lên tiếng. “Phu nhân Arryn có bổn phận phải phục tùng ngài, giống như Nhà Stark, Renly em ngài, và tất cả bọn họ. Ngài là vị vua đích thực duy nhất của họ. Tại sao phải cầu cạnh và mặc cả với họ để có được thứ vốn dĩ thánh thần đã ban cho thuộc về ngài?”

Bà ấy nói thánh thần, chứ không phải các vị thần. Nữ tu đỏ đã thuyết phục được phu nhân, cả trái tim và tâm trí, và giờ bà đã bỏ các vị thần bảo hộ Bảy Phụ Quốc, cả tân thần và cựu thần, để quay sang thờ một vị mà họ gọi là Thần Ánh Sáng.

“Thánh thần của nàng cứ việc giữ lấy cái phước lành đó đi,” Lãnh chúa Stannis không ủng hộ thứ niềm tin cuồng nhiệt mới của vợ. “Cái ta cần là binh lực, chứ không phải mấy lời cầu nguyện. Hay nàng có quân đội giấu diếm ở đâu đó mà không nói cho ta biết?” Giọng ngài không biểu lộ một chút cảm xúc nào. Stannis luôn luôn tỏ ra khó chịu khi có phụ nữ bên cạnh, ngay cả khi đó là vợ mình. Khi ngài tới Vương Đô để gia nhập hội đồng của vua Robert, ngài đã để Selyse lại Dragonstone cùng con gái. Hiếm hoi lắm ngài mới viết thư, và hầu như chẳng bao giờ về thăm vợ con. Stannis chỉ thực hiện nghĩa vụ vợ chồng một đến hai lần một năm, nhưng cũng chẳng cảm thấy một chút hứng thú nào trong đó nên niềm mơ ước có con trai của ngài không bao giờ thực hiện được.

“Anh em trai, các chú và anh em họ của em có quân đội,” bà nói với vị lãnh chúa. “Nhà Florent sẽ tề tựu dưới cờ của ngài.”

“Nhà Florent chỉ huy động được hai nghìn binh lính là cùng.” Mọi người vẫn nói Stannis biết rõ sức mạnh của từng gia tộc trong Bảy Phụ Quốc. Và ta không đặt nhiều niềm tin vào các anh em trai và các chú của nàng nhiều đến như vậy, phu nhân của ta. Đất của Nhà Florent nằm quá gần Highgarden, chú nàng không nên mạo hiểm chọc tức Mace Tyrell.”

“Còn một cách khác.” Phu nhân Selyse tiến lại gần hơn. “Ngài hãy nhìn ra cửa sổ đi. Dấu hiệu mà ngài luôn mong đợi đang quét qua bầu trời. Nó có màu đỏ của lửa, màu đỏ trái tim cháy bỏng của vị thánh đích thực. Đó là lá cờ của Thần Ánh Sáng, và cũng là của ngài! Hãy nhìn nó vắt ngang bầu trời giống như hơi thở của rồng, và ngài là lãnh chúa của Dragonstone. Điều đó có nghĩa là thời của ngài đang đến, thưa bệ hạ. Dấu hiệu không thể rõ ràng hơn được nữa. Ngài phải ra khơi từ hòn đảo hoang vu đầy sỏi đá này giống như nhà chinh phạt Aegon, để quét sạch mọi thứ cản đường giống như Aegon đã từng làm. Ngài chỉ cần lên tiếng, và Thần Ánh Sáng sẽ cho ngài sức mạnh.”

“Thần Ánh Sáng sẽ cho ta bao nhiêu binh quyền?” Stannis hỏi một lần nữa.

“Tất cả những gì ngài cần,” phu nhân hứa hẹn. “Binh quyền ở Storm’s End và Highgarden trước tiên, và sau đó là tất cả các lãnh chúa dưới cờ của họ.”

“Davos sẽ nói với nàng khác đấy,” Stannis nói. “Tất cả bọn họ đều đã thề đi theo Renly rồi. Họ thích cậu em trai quyến rũ của ta hơn, giống như họ từng yêu quý Robert… và cũng như họ chưa từng yêu quý ta.”

“Vâng,” phu nhân trả lời, “nhưng nếu Renly phải chết...”

Stannis gườm mắt nhìn phu nhân của mình, cho đến khi Cressen không thể ngồi yên được nữa. “Không thể suy nghĩ theo cách đó được. Bệ hạ, dù Renly có hành động điên rồ như thế nào…”

“Hành động điên rồ? Ta gọi đó là phản bội.” Stannis quay sang phía vợ. “Em trai ta còn trẻ và khỏe mạnh, xung quanh nó là vô số quân đội, trong đó có cả các hiệp sĩ Cầu Vồng nữa.”

“Melisandre đã quan sát vệt lửa trên trời và nhìn thấy Renly phải chết.”

Cressen kinh hãi. “Anh trai gϊếŧ em khác nào nồi da nấu thịt... Thưa lãnh chúa của thần, tội ác ấy không thể chấp nhận được... xin ngài, hãy nghe thần.”

Phu nhân Selyse nhìn Cressen với vẻ dò xét. “Vậy ông sẽ khuyên lãnh chúa điều gì, Maester? Chồng ta có thể giành được nửa vương quốc không nếu ông ấy đến quỳ gối trước Nhà Stark và bán con gái chúng ta cho Lysa Arryn?”

“Ta đã luôn nghe lời cố vấn của ông, Cressen,” Lãnh chúa Stannis nói. “Giờ ta sẽ nghe theo phu nhân của ta. Ông hãy về nghỉ ngơi đi.”

Maester Cressen khó nhọc cất bước về phía cửa. Ông có thể cảm nhận được ánh mắt của phu nhân Selyse nhìn xoáy sau lưng khi ông chậm chạp đi ngang căn phòng. Xuống đến bậc thang cuối cùng, tất cả những gì ông có thể làm là cố đứng thẳng. “Giúp ta!” Ông gọi Pylos.

***

Khi đã an toàn trong căn phòng của mình, Cressen cho người đàn ông trẻ tuổi lui và lại ra đứng lặng lẽ ngoài ban công, giữa hai chiếc máng xối hình con vật và nhìn đăm đăm ra phía biển. Một chiếc thuyền chiến của Salladhor Saan đang đi ngang qua lâu đài, thân thuyền được trang trí sọc kẻ vui mắt đang rẽ làn nước xanh xám, trong khi các tay chèo cứ nhịp nhàng ngoi lên ngụp xuống. Ông quan sát cho đến khi chiếc thuyền khuất dạng sau một mũi đất. Ước gì những nỗi lo sợ của ta cũng biến mất nhanh như vậy. Phải chăng ông đã sống quá lâu rồi?

Khi khoác lên mình danh hiệu học sĩ, ông phải gạt sang một bên niềm hy vọng sinh những đứa con, nhưng đối với Cressen, ông vẫn phần nào cảm nhận mình là một người cha. Robert, Stannis, Renly... ba cậu con trai mà ông đã nuôi nấng sau khi hải vương cuồng nộ nhấn chìm Lãnh chúa Steffon. Phải chăng ông đã nuôi dạy tệ đến mức giờ đây phải chứng kiến chúng tàn sát lẫn nhau? Ông sẽ không chấp nhận điều đó, không thể chấp nhận điều đó.

Mụ đàn bà đó là nguyên nhân của mọi vấn đề. Không phải phu nhân Selyse, mà là mụ kia. Nữ tu đỏ, đó là cách gọi của những người hầu, bởi họ không dám gọi tên mụ ta. “Nhưng ta sẽ gọi tên ả,” Cressen nói với con chó ngao bằng đá. “Melisandre. Chính ả.” Melisandre của vùng Asshai, mụ phù thủy, sứ giả của màn đêm, nữ tu dòng R’hllor, Thần Ánh Sáng, Trái tim của lửa, Thần Lửa và Bóng tối. Melisandre, sự điên rồ của mụ không được phép vượt ra ngoài Dragonstone.

Căn phòng của vị học sĩ trông lờ mờ và ảm đạm sau khoảnh khắc rực rỡ của buổi bình minh. Ông run run châm một cây nến và mang nó vào phòng làm việc dưới chân cầu thang, nơi những chai thuốc mỡ, thuốc độc, và nhiều loại thuốc khác được xếp ngay ngắn trên giá. Ở ngăn dưới cùng, đằng sau một hàng lọ thấp bằng đất sét đựng thuốc mỡ, ông tìm thấy một chiếc lọ thủy tinh màu chàm, nhỏ chỉ bằng ngón tay út. Chiếc lọ kêu lách cách khi ông lắc nó. Cressen thổi lớp bụi bám bên trên và đem nó trở lại bàn. Thả mình xuống chiếc ghế, ông tháo nắp lọ rồi đổ những thứ bên trong ra. Hơn một chục hạt tinh thể bé xíu như những hạt thóc rơi lách cách xuống tờ giấy da mà ông đang đọc dở. Chúng sáng lấp lánh như đá quý trong ánh nến, đẹp đến mức vị học sĩ tưởng mình chưa bao giờ nhìn thấy những màu sắc này trước đây.

Sợi xích trên cổ khiến ông cảm thấy nặng nề. Ông chạm nhẹ vào một hạt tinh thể bằng đầu ngón út. Một vật vô cùng nhỏ bé nhưng lại có sức mạnh quyết định sự sống và cái chết. Nó được chế từ một loại cây chỉ mọc ở những hòn đảo trên Biển Ngọc, cách nơi đây nửa vòng trái đất. Lá của chúng phải đủ già, được ngâm vào nước chanh, đường và một số nguyên liệu quý khác từ Đảo Summer. Sau đó, có thể vứt lá đi, nhưng chất độc phải được làm đông với tro và để kết tinh. Quá trình này rất khó khăn và tốn thời gian, nguyên liệu thì đắt đỏ và khó kiếm. Chỉ các nhà giả kim ở Lys biết cách chế tạo nó, cả nhóm Hội Vô Danh ở thành phố tự trị Braavos... và các vị học sĩ trước ông nữa, nhưng loại thuốc độc này hoàn toàn không được nhắc đến bên ngoài bức trường thành Citadel. Mọi người đều biết một học sĩ sẽ có thêm một hạt trên sợi xích mỗi khi học được một phương pháp chữa trị mới – nhưng họ quên một điều rằng ai biết cách cứu người thì cũng biết cách gϊếŧ người.

Cressen không còn nhớ người Asshai’i gọi những lá cây ấy là gì, hay những kẻ đầu độc ở Lys gọi loại tinh thể này là gì. Ở Citadel, nó được gọi một cách đơn giản là thuốc siết cổ. Hòa tan hạt tinh thể vào rượu và nó sẽ khiến các cơ trên cổ người uống thắt lại chặt đến mức bóp nghẹt khí quản anh ta. Họ nói mặt của nạn nhân sẽ chuyển sang tím tái như chính màu của viên tinh thể đã gieo cho họ cái chết. Nó cũng giống hệt như cách một người bị nghẹn một miếng thức ăn.

Và ngay đêm nay Lãnh chúa Stannis sẽ thiết đãi những người dưới trướng ngài, phu nhân của ngài, và… nữ tu đỏ, Melisandre của vùng Asshai.

Ta phải nghỉ ngơi, Maester Cressen tự nhủ. Ta phải dồn toàn tâm sức và trở nên cay độc. Tay không được phép run, và dũng khí của ta cũng vậy. Ta sắp làm một việc kinh khủng, nhưng đó là điều cần thiết. Nếu thực sự trên đời có thánh thần, họ sẽ tha thứ cho ta. Gần đây hầu như ông không ngủ được. Chợp mắt một chút sẽ giúp ông tỉnh táo để đối diện với thử thách sắp tới. Mệt mỏi, ông gieo mình xuống giường. Nhưng khi nhắm mắt, ông vẫn thấy ánh sáng của ngôi sao chổi, đỏ rực và bừng cháy sống động giữa màn đêm sâu thẳm trong những giấc mơ của ông. Có lẽ đó là ngôi sao chổi của ta, ông mơ màng nghĩ trước khi chìm trong vô thức. Một điềm báo về máu, lời tiên tri về những cuộc tàn sát... Đúng vậy…

Trời đã tối đen như mực lúc ông thức dậy, không có chút ánh sáng nào lọt vào phòng ngủ, và mọi khớp nối trên người ông đều đau nhức. Cressen cố nhấc mình dậy, đầu đau như búa bổ, tìm cây gậy rồi gượng đứng một cách loạng choạng. Muộn quá rồi, ông nghĩ. Họ không triệu tập ta. Bình thường bao giờ ông cũng được triệu tập khi có yến tiệc, được ngồi mâm trên kế bên Lãnh chúa Stannis. Khuôn mặt của vị lãnh chúa hiện lên trước mặt ông không phải khuôn mặt của người đàn ông trưởng thành bây giờ, mà là cậu bé ngày nào đang đứng cô độc trong bóng tối, trong khi ánh nắng chan hòa chiếu rọi lên anh trai của cậu. Dù là việc gì Robert cũng làm trước và làm tốt hơn cậu. Cậu bé tội nghiệp… Ông phải nhanh chân lên, vì cậu bé. Vị học sĩ quay lại với những hạt tinh thể trên tấm giấy da và xúc chúng vào lọ. Cressen không có những chiếc nhẫn rỗng ruột giống như mấy kẻ chuyên đầu độc ở Lys ưa chuộng, nhưng ông có vô số những chiếc túi lớn nhỏ may trong ống tay áo rộng thùng thình. Ông giấu thuốc siết cổ ở đó, mở cửa bước ra ngoài và gọi: “Pylos? Ngươi đâu rồi?” Không thấy ai trả lời, ông gọi lần nữa, to hơn. “Pylos, giúp ta.” Vẫn không có câu trả lời. Thật kỳ lạ; vị học sĩ trẻ tuổi ở căn phòng nhỏ chỉ cách đó một nhịp cầu thang, chắc chắn có thể dễ dàng nghe thấy tiếng ông gọi.

Cuối cùng, Cressen phải gọi những người hầu. “Nhanh lên,” ông nói với họ. “Ta đã ngủ quá lâu. Chắc giờ họ đã đang dự tiệc… uống rượu... Đáng lẽ phải gọi ta dậy chứ.” Chuyện gì đã xảy ra với Maester Pylos vậy? Thực sự ông không hiểu nổi.

Lại một lần nữa ông phải đi qua dãy hành lang dài. Gió đêm mang theo mùi của biển thì thầm len lỏi qua khung cửa sổ lớn. Những ngọn đuốc lập lòe dọc bức tường của Dragonstone, và ở doanh trại quân đội dưới kia, ông có thể thấy hàng trăm bếp lửa đang cháy, giống như một cánh đồng đầy sao vừa rơi xuống mặt đất. Trên trời, ngôi sao chổi oan nghiệt vẫn rực đỏ. Ta đã lớn tuổi và đủ khôn ngoan để không sợ hãi những thứ như vậy, vị học sĩ già tự nhủ.

Cánh cửa dẫn vào Đại Sảnh được đặt trong miệng của một con rồng đá. Ông bảo mấy người hầu hãy để ông ở ngoài. Ông vào một mình thì tốt hơn; không được phép tỏ ra yếu ớt. Nặng nhọc chống gậy, Cressen leo những bậc cuối cùng và tập tễnh bước tới bên dưới những chiếc răng rồng trên cánh cổng ra vào. Hai lính gác mở cánh cửa màu đỏ nặng nề trước mặt ông, khiến những âm thanh huyên náo và ánh sáng bên trong bất chợt tràn ra ngoài. Cressen tiếp tục bước vào sâu trong họng con rồng.

Lẫn trong tiếng dao đĩa leng keng và tiếng rì rầm nói chuyện trên bàn tiệc, ông nghe thấy giọng hát của Mặt Sẹo “...Lãnh chúa à, nhảy đi lãnh chúa ơi,” kèm theo đó là tiếng chuông bò kêu chói tai. Vẫn là bài hát đáng sợ mà anh ta hát sáng nay. “Lãnh chúa à, ở lại đi lãnh chúa ơi, màn đêm đen vĩnh viễn chẳng xa rời.” Những chiếc bàn bên dưới chật kín hiệp sĩ, cung thủ, và người phụ trách các nhóm lính đánh thuê. Họ đang xé bánh mì rồi chấm vào món cá hầm. Không có tiếng cười đùa ầm ĩ, không có chuyện hò hét nhặng xị làm mất phẩm giá giống như ở các bữa tiệc khác; Lãnh chúa Stannis không cho phép những điều như vậy.

Cressen tiến tới chiếc bục cao nơi các tiểu lãnh chúa ngồi với nhà vua. Ông phải bước cẩn thận khi đi qua Mặt Sẹo. Gã mải nhảy nhót trong tiếng chuông bò kêu ầm ĩ nên chẳng thèm để ý ông đang tiến đến. Khi Mặt Sẹo đổi chân nhảy lò cò, gã lảo đảo ngã vào Cressen làm ông đánh rơi chiếc gậy. Họ ngã lăn xuống sàn giữa đám người đang cười rộ lên xung quanh. Đó là một cảnh tượng thật lố bịch.

Nửa người Mặt Sẹo nằm bên trên vị học sĩ già, khuôn mặt màu mè của gã dí sát mặt ông. Gã làm rơi chiếc nón sắt cùng với hai nhánh sừng hươu và mấy quả chuông. “Người từ dưới đáy biển ngã lên,” gã hát. “Ờ, ờ, biết rồi, biết rồi.” Vừa cười khúc khích, gã vừa lồm cồm bò dậy, đứng lên múa may loạn xạ.

Để cứu vãn tình hình, vị học sĩ mỉm cười yếu ớt và cố gắng đứng dậy, nhưng hông của ông đau đến nỗi ông tưởng mình vừa tự làm gãy xương hông một lần nữa. Ông cảm thấy có một đôi bàn tay mạnh mẽ nắm lấy cánh tay ông và kéo ông đứng dậy. “Cảm ơn ngài,” ông lẩm bẩm rồi quay người lại để xem hiệp sĩ nào vừa ra tay giúp đỡ ông…

“Maester,” Melisandre nói, chất giọng trầm trầm của mụ phảng phất âm điệu của Biển Ngọc. “Ngài cần phải cẩn thận hơn.” Như mọi khi, cô ta vẫn đỏ từ đầu đến chân. Cô ta mặc một bộ đầm dài rộng thùng thình bằng lụa mềm sáng rực như lửa, ống tay có viền trang trí và một đường xẻ sâu ở vạt trên thân áo, để lộ thấp thoáng lớp vải đỏ thẫm như máu ở bên trong. Xung quanh cổ cô ta là một dải băng màu đỏ và vàng, bó sát hơn bất cứ sợi xích đeo cổ của vị học sĩ nào. Nó được trang trí với một viên hồng ngọc vĩ đại duy nhất.

Mái tóc cô ta không có màu vàng cam hay màu hồng dâu giống như những người có tóc đỏ thông thường, mà là một màu đồng sáng rực, chói lọi trong ánh đuốc. Ngay cả đôi mắt cô ta cũng màu đỏ, nhưng làn da lại hơi tái, mềm mịn, và trắng bóc. Cô ta mảnh dẻ, duyên dáng và cao lớn hơn hầu hết các hiệp sĩ, bộ ngực đồ sộ, eo thon và khuôn mặt trái tim. Một người đàn ông khi đã để mắt đến cô ta thì không dễ gì rời ra ngay được, dù đó có là mắt của một vị học sĩ đi chăng nữa. Rất nhiều người nói cô ta đẹp. Nhưng cô ta không hề đẹp. Nhìn vào cô ta chỉ thấy một sắc màu đỏ rực khiến người ta khϊếp sợ.

“Tôi… cảm ơn quý cô.”

“Một người vào tuổi của ngài phải cẩn thận khi đi lại,” Melisandre lịch sự nói, “vì màn đêm tối tăm và chứa đầy những điều kinh khủng.”

Ông biết câu nói đó, một lời cầu nguyện trong kinh thánh của cô ta. Chẳng có nghĩa gì cả, ta cũng có đức tin của riêng mình.

“Chỉ có trẻ con mới sợ bóng tối thôi,” ông nói. Nhưng ngay cả khi nói điều đó, ông vẫn nghe thấy Mặt Sẹo lại bắt đầu ngân nga bài hát của hắn. “Lãnh chúa à, lãnh chúa ơi, màn đêm đen vĩnh viễn chẳng xa rời.“

“Đúng là nực cười,” Melisandre nói. “Một thằng hề thông minh và một ông già uyên thâm ngu ngốc.” Ả cúi người nhặt chiếc mũ bị rơi lăn lóc của Mặt Sẹo và đội lên đầu Cressen. Những chiếc chuông bò khẽ rung lên khi chiếc xô thiếc úp xuống trượt qua hai tai ông. “Chiếc vương miện này rất hợp với chuỗi vòng đeo cổ của ngài đấy, thưa Maester,” ả tuyên bố. Xung quanh họ, mọi người cười nghiêng ngả.

Cressen mím môi cố gắng nén cơn thịnh nộ. Ả nghĩ ông yếu đuối và vô dụng, nhưng ả sẽ được một bài học khi kết thúc buổi tối hôm nay. Dù đã già, nhưng ông vẫn là một học sĩ của thành Citadel. “Ta không cần vương miện mà chỉ cần sự thật,” ông nói với ả và gỡ chiếc mũ của gã hề ra khỏi đầu.

“Có những sự thật trên thế giới này không hề được biết đến ở Oldtown.” Melisandre quay về phía chiếc bàn ở trên cao nơi vua Stannis và hoàng hậu đang ngồi, chiếc váy lụa đỏ xoay một vòng trước mặt ông. Cressen đưa chiếc mũ thiếc gắn gạc hươu lại cho Mặt Sẹo và đi theo nữ tu đỏ.

Maester Pylos đang ngồi vị trí của ông.

Việc duy nhất người đàn ông già có thể làm là sững lại nhìn. “Maester Pylos,” cuối cùng ông nói. “Ngươi… ngươi không gọi ta dậy.”

“Bệ hạ yêu cầu tôi để cho ngài nghỉ.” Ít nhất Pylos còn hơi đỏ mặt. “Bệ hạ nói ngài không cần thiết phải ở đây.”

Cressen nhìn các hiệp sĩ, đội trưởng và những tiểu lãnh chúa đang ngồi im lặng. Lãnh chúa Celtigar, già nua và cáu kỉnh, mặc một chiếc áo choàng không tay trang trí những con cua màu đỏ thẫm. Lãnh chúa Velaryon hào hoa chọn loại vải lụa màu xanh dương, con cá ngựa màu đồng nơi cổ áo rất hợp với mái tóc dài của anh ta. Lãnh chúa Bar Emmon, một cậu bé ục ịch 14 tuổi, mặc đồ vải nhung màu tía được trang trí bằng một con hải cẩu trắng. Ser Axell Florent trông vẫn rất giản dị dù ông khoác lên người tấm lông cáo và áo vải thô màu đỏ nhạt, Lãnh chúa Sunglass ngoan đạo đeo những viên đá mặt trăng trên cổ, cổ tay và ngón tay, còn thuyền trưởng Salladhor Saan của Lys thì trông như ông mặt trời với bộ đồ vải sa tanh đỏ tươi, vàng và trang sức. Chỉ có Ser Davos ăn vận đơn giản trong chiếc áo chẽn nâu và áo khoác len xanh, và cũng chỉ có Ser Davos bắt gặp ánh nhìn của ông, với lòng trắc ẩn hiện lên từ đáy mắt.

“Sự già nua và lẩm cẩm của ông không còn giá trị gì đối với ta nữa, ông già ạ.” Nghe rất giống giọng của Lãnh chúa Stannis, nhưng không thể nào như vậy được, không thể nào. “Từ giờ trở đi Pylos sẽ cố vấn cho ta. Cậu ấy cũng làm việc luôn với những con quạ vì ông không thể trèo lên tổ quạ trên bụi cây được nữa. Ta sẽ không để ông tự chuốc lấy cái chết khi phục vụ cho ta đâu.”

Maester Cressen chớp mắt. Stannis, chủ nhân của ta, cậu bé luôn buồn rầu ủ rũ của ta, cậu con trai mà ta chưa bao giờ có, con không được làm thế, con không biết ta quan tâm đến con, sống vì con, yêu thương con bất chấp mọi thứ như thế nào ư? Đúng, ta yêu thương con hơn cả Robert hay Renly, bởi con là đứa trẻ tội nghiệp nhất, là người cần ta nhất. Nhưng tất cả những gì vị học sĩ nói chỉ là, “Vâng, xin theo ý ngài... nhưng thần đang đói. Chẳng lẽ thần không được một chỗ trên bàn tiệc của ngài hay sao?” Bên cạnh con, chỗ của ta là bên cạnh con…

Ser Davos đứng dậy. “Tôi rất lấy làm hãnh diện nếu ngài ngồi đây bên cạnh tôi, thưa học sĩ.”

“Nếu ngươi muốn vậy.” Lãnh chúa Stannis quay sang nói điều gì đó với Melisandre, người ngồi bên tay phải của ngài, một vị trí vô cùng danh giá. Phu nhân Selyse ngồi bên trái và nở một nụ cười tươi tắn và mong manh như những thứ trang sức mà phu nhân đang đeo.

Xa quá, Cressen bần thần nghĩ và nhìn vào chỗ Ser Davos đang ngồi. Nửa số người tham dự đang ngồi giữa gã buôn lậu này và chiếc bàn trên cao. Ta phải tiến đến gần ả nếu muốn bỏ thuốc siết cổ vào cốc của ả, nhưng làm thế nào đây?

Mặt Sẹo nhảy lò cò khi vị học sĩ chậm chạp đi vòng qua bàn và tiến tới chỗ Davos Seaworth. “Ở đây người ăn thịt cá,” gã hề vui vẻ và giơ một con cá thu lên vẫy vẫy như cầm cây quyền trượng. “Dưới biển, cá ăn thịt người. Ờ ờ, biết rồi, biết rồi.”

Ser Davos dịch sang để nhường chỗ cho Cressen trên chiếc ghế băng. “Đêm nay chúng ta đều là những thằng hề,” anh ta buồn bã nói khi Cressen ngồi lên ghế, “vì tất cả những thứ ngớ ngẩn này. Nữ tu đỏ đã nhìn thấy chiến thắng trong ngọn lửa của ả, và Stannis dự định sẽ tuyên chiến, bất kể hiện có bao nhiêu binh lính trong tay. Tôi sợ trước khi ả xong việc thì chúng ta đã chìm dưới đáy biển như Mặt Sẹo nói rồi.”

Cressen đút tay vào ống tay áo như để giữ ấm. Các ngón tay của ông lần tìm những hạt tinh thể giấu trong túi len. “Lãnh chúa Stannis.”

Stannis ngừng nói chuyện với nữ tu đỏ, quay sang phía ông. Nhưng người trả lời lại là phu nhân Selyse. “Bệ hạ Stannis. Ông quên mất vị trí của mình rồi, Maester.”

“Ông ấy già rồi, suy nghĩ không được sáng suốt nữa,” vị vua thô lỗ nói với vợ. “Chuyện gì vậy, Cressen? Ông nói đi nào.”

“Nếu ngài đã quyết định ra khơi, việc thỏa hiệp với Lãnh chúa Stark và phu nhân Arryn là việc rất quan trọng...”

“Ta không thỏa hiệp với ai cả,” Stannis Baratheon nói.

“Vậy có khác nào ánh sáng phải thỏa hiệp với bóng đêm?” Phu nhân Selyse nắm lấy tay lãnh chúa.

Stannis gật đầu. “Nhà Stark muốn chiếm một nửa vương quốc của ta, trong khi Nhà Lannister đánh cắp ngai vàng, binh lính, quân hầu và các thành trì mà đáng lẽ phải thuộc về ta. Chúng là những kẻ chiếm đoạt, và chúng đều là kẻ thù.”

Ta đã để mất ngài rồi, Cressen suy nghĩ trong tuyệt vọng. Giá như ông có thể tiếp cận được Melisandre mà không ai chú ý... ông cần phải tiếp cận chiếc cốc của ả ngay lập tức. “Ngài là người kế vị hợp pháp của anh trai Robert, lãnh đạo chân chính của Bảy Phụ Quốc, và là vua của người Andals, người Rhoynar, và cả Tiền Nhân,” ông nói một cách khẩn khoản, “nhưng ngài không thể hy vọng chiến thắng mà không có đồng minh.”

“Ngài luôn có đồng minh,” phu nhân Selyse nói. “R’hllor, Thần Ánh Sáng, Trái tim của lửa, Thần Lửa và Bóng tối.”

“Thần thánh là những đồng minh thiếu tin cậy nhất,” ông nhấn mạnh, “và ả đàn bà kia chẳng có quyền gì ở đây cả.”

“Ngài nghĩ là không sao?” Viên hồng ngọc trên cổ Melisandre lóe sáng khi cô ta quay đầu lại, và trong một khoảnh khắc trông nó sáng như ngôi sao chổi vậy. “Nếu ngài cứ nói những điều điên rồ như vậy, chắc ngài phải đội chiếc vương miện kia một lần nữa đấy!”

“Đúng,” phu nhân Selyse tán thành. “Chiếc mũ của Sẹo. Nó hợp với ông đấy, ông già. Đội nó vào đi, ta ra lệnh cho ông.”

“Dưới đáy biển, không ai đội mũ cả,” Mặt Sẹo nói. “Ờ ờ, biết rồi, biết rồi.”

Đôi mắt Lãnh chúa Stannis tối sầm lại bên dưới hàng lông mày rậm rạp, miệng ngài mím chặt trong khi quai hàm lặng lẽ siết lại. Ngài luôn nghiến răng khi giận dữ. “Mặt Sẹo,” cuối cùng ngài gầm gừ, “phu nhân đã ra lệnh. Đưa cho Cressen chiếc mũ của ngươi.”

Không thể nào, vị học sĩ thầm nghĩ, đây không phải là con nữa rồi, con của ta không hành xử như vậy, dù con luôn luôn khó tính, luôn nghiêm khắc, nhưng chưa bao giờ tàn ác, con không hiểu cách nói mỉa mai, và cũng không biết cười.

Mặt Sẹo nhảy đến, những chiếc chuông bò kêu loong coong, leng keng. Vị học sĩ ngồi im trong khi gã ngốc đội chiếc xô gắn gạc hươu lên đầu ông. Cressen chúi đầu về phía trước vì sức nặng của chiếc xô. Những chiếc chuông lại kêu lên lanh lảnh. “Có lẽ từ giờ trở đi ông nên phổ nhạc mấy lời khuyên của mình đấy nhỉ,” phu nhân Selyse nói.

“Cô đi quá xa rồi đấy,” Lãnh chúa Stannis nói. “Ông ấy già rồi. Và ông ấy đã phục vụ ta rất tốt.”

Và ta sẽ phục vụ ngài cho đến giây phút cuối cùng, lãnh chúa đáng kính của ta, đứa con cô độc tội nghiệp của ta, Cressen nghĩ, và đột nhiên ông nảy ra một cách. Cốc của Ser Davos đang ở trước mặt ông, và vẫn còn phân nửa cốc rượu chua trong đó. Sờ thấy một mảnh tinh thể cứng trong tay áo, ông giữ chặt nó bằng ngón cái và ngón trỏ khi ông với lấy chiếc cốc. Hành động phải suôn sẻ, khéo léo, mình không được lóng ngóng vụng về, ông cầu nguyện, và các vị thần đã nghe thấy lời cầu nguyện của ông. Chỉ trong nháy mắt, những hạt tinh thể đã biến mất khỏi ngón tay ông. Suốt mấy năm nay, bàn tay ông chưa bao giờ quả quyết đến thế, cũng chưa bao giờ linh hoạt được như vậy. Ngoài Davos ra, ông chắc chắn không ai khác nhìn thấy. Ông chắc chắn như vậy. Với chiếc cốc trong tay, ông đứng dậy. “Có thể tôi là một ông già ngốc nghếch. Nhưng quý cô Melisandre, cô có sẵn lòng chia sẻ một cốc rượu với tôi không? Uống một cốc để vinh danh vị thần của cô, Thần Ánh Sáng? Nâng cốc chúc mừng quyền năng của ngài?”

Nữ tu đỏ nhìn ông chăm chú. “Nếu ngài muốn.”

Ông cảm nhận được tất cả mọi người đang nhìn mình. Davos giữ Cressen lại khi ông rời khỏi ghế, bằng cách nắm lấy vạt áo của vị học sĩ với các ngón tay bị Lãnh chúa Stannis chém cụt. “Ngài định làm gì vậy?” ông ta thì thầm.

“Một việc cần phải làm,” Maester Cressen trả lời, “vì vương quốc này, và vì lãnh chúa của ta.” Ông vội vã gạt tay Davos, khiến một giọt rượu sánh ra khỏi cốc.

Ông đứng ngay bên dưới chiếc bàn cao đối diện với ả nữ tu, và con mắt mọi người đổ dồn vào họ. Nhưng trong mắt Cressen chỉ có ả. Váy lụa đỏ, mắt đỏ, viên hồng ngọc trên cổ, đôi môi đỏ chót cong lên với nụ cười nhạt khi ả đỡ lấy tay vị học sĩ đang cầm chiếc cốc. Làn da của ả nóng rực. “Bây giờ ngài hất cốc rượu đi vẫn còn kịp đấy, Maester.”

“Không,” ông thì thầm bằng giọng khàn khàn. “Không.”

“Nếu ngài muốn.” Melisandre của vùng Asshai nhận chiếc cốc từ tay người đàn ông già cả và uống một hơi. Trong cốc giờ chỉ còn nửa hớp rượu còn sót lại, và ả đưa nó lại cho ông. “Giờ đến lượt ngài.”

Đôi tay ông run rẩy, nhưng ông phải tỏ ra cứng rắn. Một học sĩ của thành Citadel không được sợ hãi. Ngụm rượu chua chát trên lưỡi ông. Chiếc ly cạn tuột khỏi tay Cressen và rơi choang xuống nền nhà. “Thần Ánh Sáng có sức mạnh lớn lao, thưa ngài,” người đàn bà nói. “Và lửa sẽ rửa sạch tội lỗi.” Trên cổ cô ta, viên hồng ngọc ánh lên sắc đỏ lung linh.

Cressen cố gắng trả lời, nhưng cổ họng ông nghẹn lại. Tiếng ho của ông biến thành một tiếng rít vô cùng yếu ớt khi ông cố hít không khí vào. Dường như những ngón tay bằng sắt đang siết lấy cổ ông. Cressen khuỵu xuống và điên cuồng lắc đầu phản đối Melisandre, phản đối sức mạnh của ả, ma thuật của ả, và vị thần của ả. Dàn đồng ca chuông bò rung lên trên những chiếc gạc hươu, như thể đang ngân nga “đồ ngốc, đồ ngốc, đồ ngốc”, trong khi ả nữ tu đỏ cúi nhìn ông với vẻ đầy thương hại, ánh nến nhảy múa trong đôi mắt đỏ rực của cô ta.