Sáng sớm là thời gian tốt nhất để thực hiện vụ trộm con nhện. Trình diễn quá khuya, các diễn viên mệt mỏi sẽ phải ngủ tới tám, chín giờ sáng. Tôi sẽ lẻn vào, lấy được cái l*иg nhốt quý bà Octa xong là chuồn ra ngay. Nếu chẳng may người trong gánh xiếc thức dậy rồi, tôi sẽ trở về nhà và quên chuyện này đi.Phần khó nhất là chọn ngày. Thứ tư là lý tưởng nhất: xuất diễn cuối cùng của đoàn là đêm trước đó. Vì vậy rất có thể họ sẽ dọn đi vào buổi trưa là hợp lý nhất – đến điểm diễn mới trong khi ma-cà-rồng chưa thức dậy – và… chưa kịp phát hiện ra bị mất trộm. Nhưng nếu họ dọn đi vào ban đêm, ngay sau buổi diễn, tôi sẽ bị mất cơ hội lớn!
Như vậy, chắc phải hành động ngay đêm mai: thứ ba. Nhưng như thế, cũng có nghĩa là ông Crepsley sẽ còn nguyên thời gian còn lại của đêm thứ ba, tìm kiếm con nhện của ông ta (và tôi). Quá liều lĩnh nhưng không còn chọn lựa nào khác nữa.
Tôi đi ngủ sớm hơn thường lệ. Thấy tôi hôn má và bắt tay ba để vào giường sớm, ông bà tưởng tôi đang “lập công chuộc tội”. Ông bà đâu ngờ, nếu có chuyện không may xảy ra cho tôi tại rạp hát, tôi sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại ba má nữa.
Tôi có một cái radio và cũng là đồng hồ báo thức. Tôi chỉnh cho chuông reo lúc 5 giờ sáng, rồi gài tai nghe vào radio. Như vậy tôi sẽ thức dậy mà không ai biết.
Tôi chìm vào giấc ngủ mau hơn tôi tưởng, và đánh thẳng một giấc ngủ ngon lành cho tới khi có tiếng chuông reo. Càu nhàu trở mình rồi tôi ngồi dậy dụi mắt. Mất mấy giây tôi thẫn thờ chẳng biết mình đang ở đâu và tại sao phải thức dậy sớm thế. Rồi tôi nhớ ra con nhện và kế hoạch của mình. Tôi mỉm cười khoái trá.
Nhưng không cười được lâu, vì tôi nhận ra tiếng chuông đang reo không thông qua tai nghe. Chắc khi ngủ tôi đã lăn lộn làm tuột dây rồi.
Nhảy khỏi giường, tôi tắt vội chuông báo thức. Tim tôi đập rộn ràng, ngồi trong bóng tối lắng nghe động tĩnh. Cho đến khi biết chắc ba má tôi vẫn còn đang ngủ, tôi rón rén vào toa-lét. Nhưng có thể ba má tôi đã nghe tiếng chuông, tôi phải hết sức thận trọng.
Nhẹ nhàng xuống nhà dưới, tôi lẻn ra ngoài. Mặt trời sắp lên, có vẻ như hôm nay trời rất nắng.
Tôi vừa bước nhanh vừa lẩm bẩm hát, cho thêm khí thế. Vì tôi lo ngại đến nỗi mấy lần toan trở lại. Một lần tôi đã thực sự quay đầu, trở về nhà, nhưng rồi nhớ lại hình ảnh con nhện đong đưa dưới cằm ông Crepsley và những trò biểu diễn của nó, tôi lại tiếp tục tiến bước về rạp hát. Tôi không thể cắt nghĩa, vì sao con nhện đó quan trọng đối với tôi đến nỗi tôi phải liều mạng một cách hiểm nghèo như thế này, chỉ để mong chiếm được nó.
Ban ngày, cái rạp hát cũ kỹ, ọp ẹp trông còn dễ sợ hơn. Tôi nhìn rõ cả những vết nứt nẻ ngoài mặt tiền, hang chuột khắp nơi, màng nhện giăng đầy cửa sổ. Tôi rùng mình đi gấp ra phía sau. Những căn nhà bỏ trống, những mảnh sân đầy đồ phế thải, rác rến chất đống. Không thấy một bóng người. Có lẽ khi trời sáng hẳn mới có người sinh hoạt, nhưng lúc này, nơi đây như một thành phố ma. Không thấy đến cả một con chó hay một con mèo.
Đúng như tôi đã nghĩ, rất nhiều lối vào nhà hát. Hai cửa ra vào và rất nhiều cửa sổ. Ô tô nhỏ và xe tải đậu bên ngoài ngôi nhà, không có hình ảnh hay bảng tên nào, nhưng tôi biết chắc những xe này của gánh xiếc. Tôi giật mình chợt nghĩ, lỡ bọn họ đều ngủ trong xe và nếu một trong những xe đó là “nhà” của ông Crepsley thì kế hoạch của tôi sẽ bị thất bại.
Tôi lẩn ngay vào trong rạp, tôi cảm thấy còn lạnh lẽo hơn cả đêm thứ bảy. Nhón gót, tôi đi xuống một hành lang dài, tiếp tục qua hành lang khác, lại thêm hành lang khác nữa. Tôi như lạc vào một mê cung. Đáng lẽ tôi phải đem theo một cuộn dây, để đánh dấu lối trở ra.
Không có dấu vết của một quái nhân nào, có lẽ tất cả bọn họ đều ở trên xe hay một khách sạn nào gần đây. Tìm kiếm suốt hai mươi phút, chân tôi mỏi nhừ. Có lẽ tôi nên trở về và quên chuyện rồ dại này đi.
Ngay lúc định bỏ cuộc, tôi chợt thấy một cầu thang dẫn xuống hầm. Tôi cắn môi, đứng lặng hồi lâu, tự hỏi mình có nên xuống đó không. Tôi đã coi quá nhiều phim kinh dị, đủ để biết rằng, đây là nơi rất thích hợp cho sào huyệt của ma-cà-rồng. Nhưng tôi cũng đã từng thấy bọn chúng bị tấn công, bị gϊếŧ và chặt ra từng mảnh khi những người hùng bước xuống một căn hầm tương tự như thế này.
Cuối cùng, tôi quyết định cởi bỏ giày, chỉ đi bít-tất để không gây tiếng động. Tôi lần xuống những bực thang. Chân tôi đạp lên rất nhiều xương vụn, nhưng vì quá lo lắng nên tôi không cảm thấy đau.
Một cái l*иg lớn ngay dưới chân cầu thang. Nhìn qua song l*иg, tôi thấy Người-sói đang nằm ngáy khò khò. Tôi lùi vội ra xa, khi Người-sói cựa mình rên rẩm. Nếu hắn thức giấc, hú lên, tất cả quái nhân sẽ chộp lấy tôi ngay.
Khi giật lùi, chân tôi chạm vào một vật vừa mềm vừa nhớt. Từ từ quay lại, tôi thấy cậu bé rắn nằm xoải trên sàn, hai mắt mở thao láo, con rắn cuốn quanh người. Không hiểu vì sao tôi không la lên hay ngất đi. Nhờ tôi đứng im thin thít như thế mà tôi thoát hiểm. Vì tuy mắt mở trừng trừng nhưng cậu ta ngủ rất say, nhịp thở sâu và đều.
Tôi nhìn quanh căn hầm tối một lần cuối, tự hứa nếu không thấy ông Crepsley, tôi sẽ trở về ngay. Suốt mấy giây tôi không thấy gì đáng chú ý, vừa định quay ra, tôi chợt thấy một vật giống như cái thùng lớn.
Nhưng không. Tôi quá rõ đó là cái gì. Đó là một chiếc quan tài.
Tôi rón rén lại gần. Chiếc quan tài dài chừng hai mét, rộng khoảng tám mươi phân. Mặt gỗ đen nhớp nháp. Rêu đóng từng mảng và một con gián đậu trên nắp hòm.
Thật tình tôi rất muốn kể là tôi đã can đảm mở nắp quan tài và dòm vào trong. Nhưng tôi đâu dám làm vậy. Chỉ nghĩ đến chuyện sờ vào nó, tôi đã dựng tóc gáy lên rồi.
Tôi đảo mắt tìm cái l*иg nhốt quý bà Octa, vì tin chắc nó chỉ quanh quẩn đâu đây, gần chủ nhân của nó đang nằm trong quan tài. Đúng vậy, cái l*иg để ngay trên sàn, bên cạnh đầu quan tài, phủ một tấm vải đỏ. Tôi liếc nhìn vào: con nhện đang nằm, bụng phập phồng, tám chân ngọ nguậy. Nhìn gần, trông nó còn khủng khϊếp hơn. Ý nghĩ chạm vào những cái chân đầy lông lá và để nó bó sát mặt làm tôi khϊếp đảm.
Nhưng đến nước này, chỉ một tên thật sự hèn nhát mới rút lui. Tôi xách cái l*иg, đặt giữa hầm. Chìa khóa vẫn nằm trong ổ khóa. Một ống sáo buộc một bên nan l*иg.
Tôi lấy lá thư đã viết từ đêm qua. Lá thư đơn giản nhưng tôi phải vất vả mấy tiếng đồng hồ mới xong. Tôi dán thư lên nắp quan tài.
Thưa ông Crepsley,
Tôi biết ông là ai và là cái gì. Tôi lấy và sẽ nuôi Octa. Đừng tìm kiếm. Đừng trở lại thị trấn này. Nếu không, tôi sẽ cho mọi người biết ông là ma-cà-rồng, ông sẽ bị săn đuổi và bị gϊếŧ. Tôi không phải là Steve. Steve không biết chuyện này. Tôi sẽ săn sóc con nhện của ông đàng hoàng.
Tất nhiên là tôi không ký tên.
Nhắc đến tên Steve có lẽ không là một ý hay. Nhưng chắc chắn ông ta nghi ngờ nó, vì vậy tốt hơn là cho ông ta biết một cách rõ ràng, nó không liên quan đến vụ này.
Xong việc, tôi xách l*иg chạy vội lên thang (rất nhẹ nhàng). Tôi xỏ giày rồi tìm lối ra, dễ dàng hơn tôi tưởng. Vì ngoài hành lang sáng hơn dưới hầm nhiều. Ra tới bên ngoài, tôi đi vòng ra mặt tiền rạp hát, rồi chạy một mạch về nhà, bỏ lại phía sau: rạp hát, ma-cà-rồng và nỗi sợ của tôi. Bỏ lại tất cả, trừ quý bà Octa.