Câu nói của Nguyễn Vô Niệm làm cho Nguyễn Như Đổ gương mặt bỏng rát, hắn chỉ muốn công kích Nguyễn Vô Niệm, không ngờ lại bị thiếu niên này đánh mặt như vậy. Nguyễn Như Đổ dù là Hàn lâm trực học sĩ nhưng tính cách lại có phần gian ngoan cùng hẹp hỏi, thù này hắn ghi lại, Nguyễn Như Đổ lúc này chỉ hừ lạnh một tiếng nói.
- Một kẻ phàm phu tục tử biết cái gì mà nói chuyện Thánh nhân.
Lúc này Lê Thái bỗng nhiên nhìn thấy ở bên trên tường treo một bức tranh chữ, bên trong bức tranh là một ông già ngồi câu cá, bên dưới có đề thơ, hắn liền nói.
- Chủ tử, người xem bài thơ trên bức tranh này.
Lê bang Cơ lúc này cũng chú ý đến bức tranh, vừa này hắn bị cuộc tranh cãi của Nguyễn Như Đổ và Nguyễn Vô Niệm kéo sự chú ý lại không để ý đến bức tranh treo trên tường này. Bút pháp của bức tranh rất lạ mắt, vẽ sự vật lại cực kỳ rõ ràng từng đường nét bút mà không phải nét vẽ tranh thời bấy giờ. Bên dưới còn đề một bài thờ.
“Một hữu đông hàn tiều tuỵ cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cánh khẩn trương”.
(Ví không cảnh tiêu điều tiết đông rét buốt
Đâu có cảnh ngày xuân huy hoàng ấm áp
Tai ương đem ta ra mà rèn luyện
Khiến tinh thần ta lại càng khẩn trương).
Dưới lạc đề còn ký tự Hồ Chí Minh, có vẻ là tên tác giả. Nguyễn Như Đổ không khỏi thở phào một hơi, nếu như ký tên là Nguyễn Vô Niệm thì hắn tuyệt đối sẽ bị đánh mặt lần nữa. Lê Bang Cơ lúc này lại hơi cảm thán nói.
- Lời thơ không hoa mỹ nhưng lại cho người ta cảm giác ý chí của một con người đang sục sôi. Một người có thể dùng ngôn từ đơn giản để thể hiện ý cảnh trực tiếp như thế này thực sự không phải bình thường.
Những người làm thơ lúc này thường dùng những câu từ hoa mỹ để ám chỉ điều muốn nói, người bình thường không thể hiểu được, và bọn hắn dựa vào đó để tỏ ra mình thực sự đẳng cấp hơn những người khác, còn biểu đạt trực tiếp thì bị coi là “kém văn” hoặc “thô tục” bởi vì từ ngữ không đủ uyển chuyển, cũng như không thể thể hiện được đầy đủ ý thơ trong đó.
Tuy nhiên bài thơ này lại khác, không chỉ từ ngữ dùng đơn giản, chỉ cần người biết chữ, không cần học rộng hiểu sâu cũng có thể nhìn hiểu, hơn nữa trong từng câu chữ lại biểu hiện lên ý chí của một người không khuất phục bởi số phận, tai ương mà nản chí, ngược lại hắn không ngừng tu chỉnh, đoán luyện chính mình để trở thành một người tốt hơn, không chỉ vậy quá trình này càng phải kiên cường, càng phải khẩn trương. Lê Bí cũng gật đầu nói.
- Qua lối thơ lại có thể thấy người này có cái nhìn thực sự thấu triệt về cuộc sống, dù từ ngữ đơn giản, thế nhưng bên trong dường như lại có ẩn sâu triết lý cuộc sống nào đó. Nhưng đáng ra người này phải có dánh tiếng mới phải.
Bọn hắn chính là ưa thích suy diễn ý thơ của tác giả. Giống như các giáo viên văn thời hiện đại cứ ưa thích phân tích bài văn của tác giả sao cho thật hoa mỹ, thật nghệ thuật, đến mức nhà văn cũng không biết là họ có thể viết ý cảnh cao siêu đến vậy luôn.
Lê Bang Cơ nghe Lê Bí nói liền quay sang Lê Thái hỏi.
- Lê Thái, ngươi có từng nghe đến Hồ Chí Minh là ai không?
Lê Thái cười khổ nói.
- Chủ tử, người trong thiên hạ có lẽ ta không biết hết, nhưng ở Hải Tây đạo tuyệt đối không có người này. Lát nữa ngài thử hỏi Nguyễn Vô Niệm xem sao. Dù sao bức tranh là của hắn.
Lúc này Lê Bang Cơ mới để ý đến một chi tiết mà mình bỏ quên. Bức tranh cùng kiểu chữ viết này vô cùng khác lạ, khác hẳn với phong cách tranh hoạ cũng như thư pháp hiện tại, do đó trên thị trường tuyệt đối không có bán bức tranh chữ này, như vậy thì bức tranh này hoặc là do người tên là Hồ Chí Minh viết và vẽ, hoặc là chính Nguyễn Vô Niệm là người vẽ và viết bài thơ nên bức tranh này.
Nếu là giả thuyết thứ hai nói như vậy Nguyễn Vô Niệm thực sự biết chữ, nghĩ đến một đứa trẻ mồ côi tử lúc 5 tuổi, lớn lên lại có tài hoa như vậy, lại nghĩ đến ý cảnh trong bài thơ, số phận của Nguyễn Vô Niệm chẳng phải cũng tràn đầy tai ương, thế nhưng hắn không ngừng vươn lên đấy sao, đến đây Lê Bang Cơ tự hỏi nếu đặt mình vào trong hoàn cảnh của Nguyễn Vô Niệm liệu mình có thể sinh tồn được hay không? Dù tiên đến mất khi hắn còn nhỏ, thế nhưng sau lưng hắn còn có Thái hậu cùng các vị đại thần chống đỡ, lúc 5 tuổi hắn còn đang mơ màng chơi với dế thì lúc này Nguyễn Vô Niệm đã vật lộn với cuộc sống rồi. Đột nhiên hắn lại vì Nguyễn Vô Niệm mà thương tiếc, thiên tài như vậy nếu nhận được sự giáo dục từ nhỏ đến nơi đến chốn thì sẽ phát triển được đến mức nào.
Lúc này từ dưới bếp, một mùi hương đã toả ra lên phía nhà trên, đó là mùi của gạo, trứng, còn thật nhiều thứ hương liệu khác mà bọn hắn cũng không đoán ra được. Lát sau Nguyễn Vô Niệm liền mang lên 6 đĩa cơm chiên trứng cùng một đĩa thịt xông khói, bên cạnh đó là một đĩa rau. Mùi thơm từ những món ăn toả ra ngào ngạt khiến bọn hắn không khỏi nuốt nước bọn, đến mức những hộ vệ bên ngoài cũng phải hơi ngoái đầu lại nhìn, đáng tiếc không có phần của bọn hắn.
- Không biết có người đến nên lượng cơm ta chuẩn bị hơi ít, các ngươi dùng tạm.
Nghe Nguyễn Vô Niệm nói tất cả mọi người không khỏi trợn trừng mắt, bây nhiêu cơm lại còn hơi ít? Dù mỗi đĩa cơm chỉ có lượng chừng một chén cơm, thế nhưng số lượng thịt xông khói còn không ít.
Thực tế đây chính là một ngày ăn của Nguyễn Vô Niệm, trở về thời đại y tế yếu kém này Nguyễn Vô Niệm hiểu rõ được tầm quan trọng của sức mạnh thể chất, nếu không không may cảm cúm một cái thôi cũng đủ làm ngươi đi gặp ông bà, dù Nguyễn Vô Niệm rất thân với đầu Trâu mặt Ngựa, thế nhưng hắn thực sự không muốn gặp bọn hắn lần nữa ở Quỷ môn quan. Hơn nữa Nguyễn Vô Niệm ý thức được rằng hắn đang tuổi ăn tuổi lớn, lại sinh hoạt bên trong núi do đó cần lượng lớn dinh dưỡng để phát triển thể chất, do đó lượng thịt mà Nguyễn Vô Niệm tiêu thụ khá lớn. Bình thường thịt đến từ việc hắn bẫy được, về sau sau khi quen biết tiểu vằn vằn thì Nguyễn Vô Niệm trực tiếp đi tìm nó mà lấy thịt. Tiểu vằn vằn bị đánh sợ, cứ vài ngày lại mang đến một con mồi coi như quà hối lộ để khỏi bị đánh. Nên có thêm xem tiểu vằn vằn như khách quen nhà hắn vậy.
- Đến, cứ ăn tự nhiên đi, ở nhà ta không cần câu nệ tiểu tiết.
Nghe Nguyễn Vô Niệm ăn nói hào sảng như vậy Lê Bang Cơ càng ưa thích, hắn dẫn đầu ngồi xuống cầm lấy chén đũa mà ăn. Hạt cơm vừa vào trong miệng đầu tiêng vị giác của hắn lập tức bị một vị hơi cay kí©h thí©ɧ, tiếp theo đó là hương thơm ngào ngạt của cơm, trứng và gia vị lan toả bên trong miệng. Sự tấn công bằng vị giác và khứu giác như thế này khiến Lê Bang Cơ không khỏi kinh ngạc mà hô lên.
- Làm sao có thể ngon như vậy, đến ngự…đầu bếp nhà ta cũng không làm ra được cơm ngon như vậy.
Quá phấn khích suýt nữa thì Lê Bang Cơ nhắc đến ngự trù. Các vị đại thần ăn cơm cũng thấy vô cùng ngạc nhiên, bọn hắn chưa bao giờ ăn được một thứ cơm ngon đến vậy. Nguyễn Vô Niệm gắp nhanh một miếng thịt bỏ vào mồm nói.
- Cũng không có gì, chỉ là thêm vào một chút tiêu để thêm nồng, đường mật để thêm ngọt cùng một chút muối mà thôi.
- Ngươi cũng thật là giàu có, còn có thể mua đường ăn. Còn tiêu là thứ gì?
Nấu đường Đại Việt có nấu, thế nhưng là quy mô nhỏ, nấu đường cũng khá đắt đỏ do đó người bình thường cũng ít mua đường ăn. Hiện tại người Việt nấu ra chủ yếu là đường nâu, mật đường, khi thương cảng Hội An chưa xuất hiện thì ngành thủ công nghiệp nấu đường này cũng chưa phát triển. Còn hạt tiêu tại Đại Việt cũng không có trồng quy mô lớn mà chủ yếu thu được từ các cây tiêu hoang dại nên cũng không phổ biến cho đến thế kỷ 16 và sau đó là khi thực dân Pháp xâm lược lập ra các đồn điền trồng tiêu.
Nguyễn Vô Niệm luân hồi mấy kiếp rất rõ ràng điều này, hắn bảo mọi người chờ một chút, đi xuống dưới bếp lấy ít hạt tiêu đặt lên trên bàn, hắn nói.
- Hạt tiêu thứ này tại Đại Việt hiện tại không nhiều, chủ yếu mọc hoang dại, nhưng ở Thiên Trúc lại rất nhiều. Thậm chí ở châu Âu lục địa thứ này có giá trị như vàng vậy.
Lê Bang Cơ vừa cầm lên hạt tiêu vừa nghe Nguyễn Vô Niệm nói xong lập tức hít một ngụm khí lạnh.
- Thứ này lại có thể xem như vàng? Đắt như vậy?
Hắn không khỏi sợ hãi than, chẳng lẽ vừa rồi bọn hắn là đang “ăn vàng” sao? Thực tế Nguyễn Vô Niệm nói không hề sai chút nào. Từ thời cổ đại, sau khi đế quốc La Mã thôn tính Ai Cập bọn hắn đã biết đến hạt tiêu nhập từ Ấn Độ. Khi đó các giới quý tộc phương tây lập tức bị chinh phục bởi thứ gia vị đặc biệt này, thời gian đó khi tiền kim loại còn hiếm, hạt tiêu thậm chí còn được xem như là một thứ tiền tệ để trao đổi cực kỳ có giá trị. Về sau, dưới bàn tay truyền thông của người Ả Rập thổi vào trong hạt tiêu những câu chuyện huyền bí, giá cả hạt tiêu ngày càng đẩy cao, nhờ tiếp giáp với Ấn Độ, người Ả Rập mặc nhiên thao túng thứ hàng hoá một vốn mốn lời này, ở thế kỷ 13, 1 pound (0,45 kg) đã có giá 4 sillings tương đương với 12 ngày làm việc cật lực của 1 thợ thủ công lành nghề tại phương Tây. Nhờ nguồn tiền thu lại được từ nguồn lợi lớn từ gia vị những người Ả Rập nhanh chóng lớn mạnh xây dựng một đế quốc Hồi giáo hùng mạnh điển hình chính là Ottoman.