Chương 50: Annabeth 2

ANNABETH

đã

MẤT LUÔN KHÁI NIỆM VỀ THỜI GIAN.



có thể cảm thấy bánh mình ăn trước đó

đang

bắt đầu chữa lành chân mình, nhưng nó vẫn tệ tới nỗi cơn đau đập rộn lên đến tận cổ. dọc thheo tất cả các bức tường, những con nhện

nhỏ

đắm mình trong bóng tối như thể

đang

đợi lệnh bà chủ. Hàng ngàn con sột soạt sau các tấm thảm thêu, làm cho những khung cảnh được thêu dệt chuyển động như có gió.

Annabeth ngồi

trên

sàn nhà đổ nát và cố gắng duy trì sức lực. Lúc Arachne

không

để ý,



cố gắng bắt lấy loại tín hiệu gì đó bằng máy tính xách tay của Daedalus để liên lạc với bạn mình, nhưng tất nhiên



chả có lấy chút may mắn. Việc đấy khiến



chả có gì mà làm ngoài việc vừa ngạc nhiên vừa kinh dị nhìn Arachne làm việc, tám chân mụ chuyển động với tốc độ thôi miên, dần dần tháo gỡ các sợi tơ quanh bức tượng.

Với trang phục bằng vàng và khuôn mặt ngà sáng của mình, bức Athena Parthenos trông còn kinh hơn cả Arachne. Nó lạnh lùng nhìn xuống như bảo, Dâng ta món ăn

nhẹ

ngon lành hay gì khác

đi. Annabeth có thể tưởng tượng mình là

một

người Hy Lạp Cổ Đại,

đi

vào đền Parthenon và nhìn thấy vị nữ thần khổng lồ này cầm khiên, giáo và cả con mãng xà nữa,

một

tay

không

kia giữ Nike, tinh linh của

sự

thắng lợi có cánh. Thế là đủ làm bất cứ người phàm nào xoắn hết cả áo chiton[0] lên rồi.

Hơn thế nữa, bức tượng còn phát xạ. Khi Athena được tháo bọc,

không

khí quanh bà ấm hơn. Làn da ngà voi của bà tỏa sáng đầy sức sống. khắp căn phòng, những con nhện

nhỏ

hơn trở nên kích động và bắt đầu rút lui trở lại hành lang.

Annabeth đoán rằng mạng nhện của Arachne

đã

che lấp và làm yếu

đi

pháp thuật của bức tượng kiểu gì đó. Giờ được tự do rồi, bức Athena Parthenos tỏa sức mạnh ma thuật khắp căn phòng. Hàng thế kỷ những lời cầu nguyện của người phàm và lễ tế thiêu[1]đã

tạo nên sức mạnh

hiện

diện trong nó. Nó được truyền sức mạnh của Athena.

Arachne có vẻ

không

chú ý. Mụ tiếp tục tự mình lẩm bẩm, đếm các thước tơ và tính số tơ dự án

yêu

cầu. Mỗi khi mụ do dự, Annabeth lại cất giọng khuyến khích và nhắc nhở rằng những tấm thảm của mụ

sẽ

đẹp biết bao

trên

đỉnh Olympus.

Bức tượng càng lúc càng sáng và nóng nên Annabeth có thể thấy được những chi tiết của ngôi đền – khối nề La Mã có lẽ

một

thời từng trắng bong, những khúc xương xỉn đen sót lại từ những nạn nhân và các bữa ăn trước kia của mụ nhện lủng lẳng treo

trên

mạng, những sợi cáp lớn dệt từ tơ nối trần phòng với sàn. Giờ Annabeth mới thấy những miếng gạch cẩm thạch dưới chân mình mỏng manh tới mức nào. Chúng được phủ bằng lớp mạng

thật

tốt, như kiểu lưới thép giữ các mảnh kiếng vỡ lại với nhau. Mỗi khi bức Athena Parthenos di chuyển dù chỉ tí xíu, vết nứt lan ra và mở rộng hơn

trên

sàn phòng. Ở nhiều chỗ, có những cái hố to bằng nắp cống. Annabeth gần như ước gì mọi thứ chìm trong bóng tối thêm lần nữa. Dù kế hoạch của



có thành công và đánh bại được Arachne chăng nữa,



không

chắc làm sao mình có thể sống sót ra khỏi căn phòng này.

“Nhiều tơ quá,” Arachne lẩm bẩm. “Ta có thể làm được hai mươi tấm thảm–”

“Tiếp tục

đi!” Annabeth gọi vọng lên. “Bà

đang

tiến hành

một

công việc tuyệt diệu đấy.”

Mụ nhện tiếp tục làm. Sau

một

hồi tưởng chừng như mãi mãi,

một

núi tơ lấp lánh được chất đống dưới chân tượng. Các bức tường của căn phòng vẫn bị bao bởi mạng nhện. Những sợi cáp giữ căn phòng

không

sụp vẫn chưa bị đυ.ng đến. Nhưng bức Athena Parthenos

đã

tự do.

Làm ơn tỉnh dậy

đi, Annabeth cầu xin bức tượng. Mẹ, giúp con với.

không

có gì xảy ra, nhưng các vết nứt dường như lan rộng nhanh hơn

trên

sàn nhà. Theo như Arachne bảo, những ý nghĩ độc địa của lũ quái vật

đã

ăn mòn nơi nền móng ngôi đền hàng thế kỉ nay. Nếu đấy là

sự

thật, việc bức Athena Parthenos tự do thậm chí

sẽ

còn thu hút nhiều chú ý của tụi quái vật dưới đáy Tartarus hơn.

“Bản thiết kế đây,” Annabeth bảo. “Bà nên làm cho nhanh.”



nhấc màn hình máy tính cho Arachne xem, nhưng mụ nhện ngắt lời, “Ta nhớ rồi, nhóc. Ta có con mắt nghệ sĩ để nhớ



tới từng chi tiết.”

“Tất nhiên là thế. Nhưng ta phải nhanh vào.”

“Tại sao?”

“Ừm…để có thể giới thiệu tác phẩm của bà cho cả thế giới này được biết!”

“Hmm. Rất tốt.”

Arachne bắt đầu dệt. Đấy là

một

công việc chậm chạp, dệt sợi thành các dải vải dài. Căn phòng ầm rung. Những vết nứt dưới chân Annabeth toác rộng hơn.

Nếu Arachne có để ý thấy, mụ cũng chả quan tâm. Annabeth cân nhắc xem có nên cố đẩy mụ nhện vào

một

cái hố bằng cách nào đó được

không, nhưng



bác bỏ luôn ý nghĩ ấy.

không

có cái hố nào đủ lớn, hơn nữa, nếu sàn nhà sụp, Arachne có lẽ có thể treo người bằng tơ và thoát

đi, trong khi Annabeth và bức tượng cổ xưa té nhào xuống Tartarus.

Dần dần, Arachne hoàn thành những dải tơ dài và bện chúng lại với nhau. Kỹ năng của mụ

thật

hoàn hảo. Annabeth

không

thể

không

ngạc nhiên.



thấy thoáng nghi ngờ mẹ mình. Nhỡ Arachne là

một

thợ dệt giỏi hơn Athena

thì

sao?

Nhưng kỹ năng của Arachne

không

phải vấn đề. Mụ bị trừng phạt bởi thói kiêu ngạo và thô tục.

không

cần biết bạn tuyệt vời tới mức nào, nhưng

không

thể

đi

khắp nơi mà xúc phạm thánh thần được. Các vị thần

trên

Olympus chính là

một

lời nhắc nhở rằng luôn có người giỏi hơn bạn, nên đừng có mà ra vẻ ta đây. Dù thế…bị biến thành

một

con nhện quái dị bất tử có vẻ là

một

hình phạt quá nặng cho thói khoe khoang.

Arachne làm nhanh hơn, bện các sợi lại với nhau. Rất mau, kết cấu

đã

hoàn thiện. Dưới chân bức tượng nằm

một

l*иg trụ bện từ dải tơ, đường kính năm bộ và dài mười bộ. Bề mặt nó lấp lánh như vỏ bào ngư, nhưng trông

không

có vẻ đẹp lắm đối với Annabeth. Chức năng của nó chỉ là:

một

cái bẫy. Nó chỉ đẹp khi có tác dụng mà thôi.

Arachne quay sang



với nụ cười đói khát. “Xong! Giờ, phần thưởng của ta à! Chứng minh cho ta thấy nhà ngươi có thể thực

hiện

lời hứa

đi

chứ.”

Annabeth nghiên cứu cái bẫy.



cau mày lượn quanh nó, kiểm tra mối dệt ở mọi góc độ. Rồi, cẩn thận với cái mắt cá đau,



cúi xuống bằng tay và đầu gối rồi bò vô trong. Những đo đạc trong đầu



đã

xong. Nếu



tính sai, kế hoạch của



tiêu chắc. Nhưng



trượt qua cái hầm bằng tơ mà

không

hề đυ.ng vào hai bên. Mạng dệt

thật

nhớp nháp, nhưng

không

thế

không

xong.



bò ra đầu kia và lắc đầu.

“Có

một

lỗi,”



nói.

“Gì?!” Arachne thét lên. “không

thể nào! Ta làm theo hướng dẫn của ngươi–”

“Bên trong ấy,” Annabeth bảo. “Bò vào mà xem lấy

đi. Ngay chỗ giữa đó –

một

lỗi

trên

tấm dệt.”

Arachne sùi bọt mép. Annabeth sợ mình

đã

thúc ép hơi quá và mụ nhện

sẽ

chộp lấy mình.



sẽ

thành

một

bộ xương khác

trên

mạng nhện mất.

Thay vào đấy, Arachne dậm tám cái chân hờn dỗi. “Ta

không

mắc lỗi bao giờ.”

“Ôi,

nhỏ

thôi mà,” Annabeth

nói. “Có lẽ bà sửa được. Nhưng tôi

không

muốn cho các thần thấy cái gì ngoài tác phẩm tuyệt nhất của bà. Coi nào,

đi

vào trong kiểm tra

đi. Nếu bà sửa được, ta

sẽ

cho các vị thần

trên

Olumpus chiêm ngưỡng. Bà

sẽ

thành nghệ sĩ lừng danh nhất mọi thời đại. Có khi họ còn sa thải chín nữ thần Muse [2] và thuê bà giám sát mọi môn nghệ thuật. Nữ thần Arachne…phải, tôi

sẽ

chả lấy gì làm ngạc nhiên đâu.”

“Nữ thần…” hơi thở Arachne nông hơn. “Phải, phải. Ta

sẽ

chữa lại lỗi này.”

Mụ chui đầu vào cái hầm. “Nó đâu?”

“Ngay chính giữa,” Annabeth giục. “đi

tiếp vô. Có thể hơi chật so với bà đấy.”

“Ta ổn!” mụ ngắt lời và lách vô trong.

Như Annabeth hy vọng, bụng của mụ nhện vừa lọt, nhưng chỉ vừa khít thôi. Khi mụ ních vào, các dải tơ bện dãn ra để chứa cho vừa. Arachne

đã

cố tới được chỗ ổ tơ của mụ.

“Ta chả thấy lỗi nào cả!” bà ta báo.

“thật

hả?” Annabeth hỏi. “Ấy, kì

thật. Ra ngoài

đi, để tôi xem lại cái coi.”

Khoảnh khắc

sự

thật

phơi bày. Arachne luồn lách, cố gắng quay lại. Căn hầm đan dệt co rút lại quanh thân mụ và giữ mụ

thật

chặt. Mụ cố lách tới trước, nhưng cái bẫy kẹt lại chỗ bụng mụ. Mụ cũng chẳng thể

đi

qua được phía ấy. Annabeth

đã

sợ rằng chân gai của mụ nhện có thể xuyên thủng lớp tơ, nhưng chân Arachne

đã

bị ép vô người mụ quá chặt nên mụ khó mà di chuyển chúng được.

“Gì – gì thế này?” mụ gọi. “Ta mắc kẹt rồi!”

“A,” Annabeth

nói. “Tôi quên

nói

cho bà hay. Món đồ nghệ thuật này gọi là Khóa Tay Trung Quốc. Ít nhất cũng là

một

biến thể lớn hơn dựa

trên

ý tưởng đấy. Tôi gọi nó là Khóa Nhện Trung Quốc.”

“Phản bội!” Arachne quẫy đạp, lăn lộn và vặn vẹo, nhưng cái bẫy giữ chặt mụ.

“Đấy là vấn đề sinh tồn,” Annabeth chữa lại. “Đằng nào bà cũng

sẽ

gϊếŧ tôi, dù tôi có giúp bà hay

không, phải chứ?”

“Ừ, tất nhiên là thế! Mày là

một

đứa con của Athena.” Cái bẫy chìm vào yên lặng. “Ý ta là…không, tất nhiên là

không

rồi! Ta tôn trọng lời hứa của mình.”

“À-há.” Annabeth lùi lại khi cái l*иg bện hình trụ bắt đầu quẫy đạp lần nữa. “Thường

thì

cái bẫy được làm bằng tre đan, nhưng tơ nhện thậm chí còn tốt hơn. Nó

sẽ

giữ thít bà lại và còn quá khỏe để có thể phá hỏng được – kể cả với bà.”

“Gàooooooo!” Arachne lăn lộn và quằn quại, nhưng Annabeth tránh xa khỏi lối đó. Dù có

một

mắt cá bị vỡ,



vẫn có thể xoay sở tránh khỏi

một

cái khóa tay bằng tơ khổng lồ.

“Ta

sẽ

tiêu diệt ngươi!” Arachne hứa hẹn. “Ý ta là…không, ta

sẽ

đối với



tử tế nếu



thả ta ra.”

“Tôi

sẽ

giữ sức nếu là bà.” Annabeth hít sâu

một

hơi, thả lỏng lần đầu tiên sau nhiều giờ. “Tôi

sẽ

gọi bạn tôi đến.”

“cô-cô

gọi cho bạn



về tác phẩm nghệ thuật của ta sao?” Arachne hỏi han đầy hy vọng.

Annabeth nhìn lướt căn phòng. Phải có cách nào gửi

một

thông điệp Iris cho tàu Argo II chứ.



còn thừa ít nước trong chai, nhưng làm thế nào tạo đủ ánh sáng và sương mù để thành cầu vồng trong cái động tối tăm nhường này?

Arachne bắt đầu lăn lộn lần nữa. “Ngươi

đang

gọi bạn tới để gϊếŧ ta!” mụ rít lên. “Ta sẽkhông chết!

không

phải chết thế này!”

“Bình tĩnh nào,” Annabeth bảo. “Bọn tôi

sẽ

để bà sống. Bọn tôi chỉ cần bức tượng thôi.”

“Bức tượng?”

“Phải.” Annabeth cứ nên kệ nó đấy nhưng nỗi sợ trong



biến thành tức tối và oán giận.

“Tác phẩm nghệ thuật mà tôi

sẽ

trưng bày nổi bật nhất

trên

Đỉnh Olympus sao?

không

phải của bà đâu. Bức Athena Parthenos thuộc về nơi đó – ngay chính giữa trung tâm khuôn viên của các vị thần.”

“không!

không,

thật

ghê tởm!”

“Ôi, nó

sẽ

không

xảy xa ngay đâu,” Annabeth

nói. “Đầu tiên chúng tôi

sẽ

đưa bức tượng đến Hy Lạp.

một

lời tiên tri bảo bọn tôi rằng nó có sức mạnh đánh bại lũ khổng lồ. Sau đấy…ừ, bọn này

không

thể cứ thế trả nó lại đền Parthenon. Thế

sẽ

làm dấy lên nhiều nghi vấn. Nó

sẽ

an toàn hơn nếu ở

trên

đỉnh Olympus. Nó

sẽ

thống nhất những đứa con của Athena và mang lại hòaa bình giữa người La Mã với Hy Lạp. Cảm ơn

đã

giữ nó an toàn nhiều thế kỷ qua. Bà

đã

phụng

sự

Athena

một

việc tốt lắm đó.”

Arachne hét lên và quấy đập.

một

sợi tơ bắn ra từ ổ tơ của mụ quái và dính vào

một

tấm thảm

trên

bức tường phía xa. Arachne thót bụng lại và nhắm mắt xé bừa cái l*иg dệt. Mụ tiếp tục lăn lộn, bắn tơ bừa bãi, kéo đổ lò lửa ma thuật và dỡ tung gạch khỏi sàn nhà. Các tấm thảm dệt bắt đầu cháy.

“Dừng lại!” Annabeth cố cà nhắc thoát khỏi đường bay của tơ nhện. “Bà

sẽ

đánh sập cái động và gϊếŧ cả hai ta mất!”

“Còn hơn là thấy ngươi thắng!” Arachne gáo thét. “Các con ta! Giúp ta!”

Ôi, tuyệt

thật. Annabeth

đã

hy vọng là vầng hào quang pháp thuật của bức tượng

sẽ

giữ lũ nhện con ở xa, nhưng Arachne tiếp tục thét lên, khẩn nài chúng giúp. Annabeth cân nhắc có nên gϊếŧ mụ nhện để khiến mụ câm mồm

đi

không. Dùng dao của



bây giờ

thì

dễ thôi. Nhưng



luôn do dự khi gϊếŧ bất kì con quái vật nào lúc nó bất lực, kể cả Arachne. Hơn nữa, nếu



đâm xuyên qua lớp tơ, cái bẫy có thể bị bung ra. Có thể Arachne

sẽ

thoát được trước khi Annabeth kết liễu được mụ.

Tất cả những ý nghĩ này đến quá muộn. Lũ nhện bắt đầu lúc nhúc ùa vô trong phòng. Bức tượng Athena rực sáng hơn. Lũ nhện





không

muốn tới gần, nhưng chúng nhích dần tới trước như

đang

thu hết can đảm mà làm vậy. Mẹ chúng đáng thét gào kêu cứu. Cuối cùng chúng ào vào, áp đảo Annabeth.

“Arachne, dừng ngay!”



la lên. “Tôi

sẽ–”

Thế nào đó, Arachne xoay được người lại trong cái nhà tù của mụ, chĩa bụng mình tới chỗ phát ra tiếng của Annabeth.

một

sợi tơ phóng vào ngực



như găng tay của

một

võ sĩ hạng nặng.

Annabeth ngã xuống, chân



nhói lên đau đớn.



điên dại chém vào dải tơ bằng dao găm khi Arachne kéo



về phía ổ tơ phập phồng của mụ.

Annabeth xoay sở cắt được sợi tơ và bò ra xa, nhưng những con nhện con

đang

tiến gần quanh

cô.



nhận ra rằng nỗ lực lớn nhất của mình là chưa đủ.



sẽ

không

ra khỏi đây được. Con cái Arachne

sẽ

gϊếŧ



ngay dưới chân bức tượng của mẹ

cô.

Percy,



nghĩ, mình xin lỗi.

Khoảnh khắc ấy, căn phòng rên lên và trần hầm nổ tung trong

một

luồng lửa sáng chói.

[0] Chiton là loại áo cổ của Hy Lạp, thằng

không

được may vá mà là vuông vải quấn quanh người và dùng dây buộc lại. Có rất nhiều kiểu quấn cho loại áo này.

[1] Tế thiêu là hình thức thiêu vật tế để dâng lên quỷ thần

[2] Là các nữ thần của cảm hứng văn học, khoa học và nghệ thuật.

Họ được coi như nguồn kiến thức, được truyền miệng qua nhiều thế kỷ trong các nền văn hóa cổ xưa ở Thơ ca và thần thoại.

Theo triết gia Plato (427 TCN – 348 TCN), trong tác phẩm Ion, có cả thảy 9 vị Muse. Plato tuy sống trước Pausanias 5 thế-kỷ, nhưng truyền thuyết ông nhắc đến có sau thuyết của Pausanias, và truyền thuyết này được thông dụng nhất ngày nay.

Tên thường gọi

Nghĩa gốc

Biểu tượng lúc đầu

Sau chuyển biến thành

Calliope

Calliopê, “có giọng du dương”

tài ăn

nói

hay

thiên

anh

hùng ca (sử thi)

Clio

Kleio, “người ca tụng”

thiên

anh

hùng ca

sử học

Erato

Eratô, “người dể thương”

thơ trữ tình, thơ lãng mạn, thơ ngày cưới

nghệ thuật đệm nhạc và hoà

âm

Euterpe

Euterpê, “người làm rất hài lòng”

nhạc khiêu vũ

âm

nhạc

Melpomene

Melpomenê, “ca sĩ”

bi kịch diễn ca

bi kịch

Polyhymnia

Polymnia, “nhiều bài ca (hymn)”

bài ca tôn giáo, tang lễ

thuật hùng biện

Terpsichore

Terpsichorê, “người nữ vũ công khêu gợi”

khiêu vũ và hát bè

múa và khiêu vũ

Thalia

Thaleia, “nở rộ, dồi dào”

hài kịch cổ Hy Lạp

hài kịch

Urania

Ourania, “thiên nữ”

chiêm tinh học

thiên văn học

Calliope là chị cả và là trưởng nhóm của các nữ thần Muse. Các truyền thuyết cũng rất phong phú về lai lịch của họ: khi

thì

họ là con của thần Zeus và Mnemosyne, nữ thần của trí nhớ, khi

thì

họ là con của nữ thần Harmonia, con

gái

của thần Ares và nữ thần Aphrodite, khi

thì

họ là 7 chị em con của Pierus và gọi là chị em Pierides.

Các nữ thần Muse làm trọng tài cho cuộc thi tài giữa thần Apollo và Marsyas. Họ cũng góp nhặt những mảnh của thi hài của thần Orpheus để chôn cất.