Tại vị 50 năm.
Họ Thục, húy phán. người Ba Thục. đô ở Phong Khê nay là thành Cổ Loa.
Giáp Thìn,nguyên niên Chu Noãn Vương năm thứ 58. Vương giệt Văn Lang quốc, cải quốc hiệu Âu Lạc quốc. Trước kia vương nhiều lần đem quân đánh Hùng Vương. Hùng Vương binh hùng tướng mạnh, vương bị thua mãi. Hùng Vương bảo vua rằng: "Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư ?" Rồi Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục Vương. Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành. Lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn, vì thành rất cao). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mời trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông, rồi khởi công đắp lại.
Bính ngọ tam niên đông chu quân nguyên niên xuân tam nguyệt, chợt có thần nhân đến cửa thành, chỉ thành cười nói: “Đắp đến bao giờ thành xong!.” Vương tiếp mời điện hỏi, đáp rằng: “Đợi giang sứ đến.”Từ mà đi ngay. Sáng hôm sau, vương ra cửa thành, quả thấy kim quy bơi trên sông từ phía đông đến, xưng giang sử, nói được tiếng người,bàn việc tương lai. Vương vui mừng,để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về nguyên do thành đổ . Kim quy nói: “Đó là do tinh khí núi sông vùng này bị con vua trước phụ vào để báp thù nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi có con quỷ, đó là người con hát thời trước chôn ở đấy hóa làm quỷ. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng, đó là dư khí của tinh, phàm người qua lại ngủ đêm ở đấy đều phải chết vì bị quỷ làm hại. Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu gϊếŧ con gà trắng để trừ tinh khí ấy, thì thành tự nhiên được bền vững.” Vương đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Quán chủ nói: “Lang quân là quý nhân,xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa.” Vương cười nói: “Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì nổi”, rồi ở lại đó. Đến đêm nghe tiếng tinh quỷ từ ngoài đến gọi mở cửa. Kim quy liền quát mắng, quỷ không vào được, đến khi gà gáy thì lũ quỷ tan chạy hết. Kim quy mời vương đuổi theo, đến Thất Diệu sơn, tinh khí biến mất.Vương về quán. Sáng sớm quán chủ nghĩ vương ắt chết, gọi người đến quán,muốn khâm liệm đem chôn. Thấy vương vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán liền sụp lạy nói: "Ngài làm sao được như thế, tất phải là thánh nhân!". Vương xin con gà trắng gϊếŧ để tế. Gà chết, con gái chủ quán cũng chết theo. Tức lệnh người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và xương người, đem đốt thành tro, rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn. Từ đấy, đắp thành không quá nửa tháng thì xong. Kim quy từ về, vương cảm tạ nói rằng: “Đội ơn ngài thành đắp đã vững, nếu có giặc ngoài đến, thì lấy gì mà chống giữ ?.” Kim quy bèn trút chiếc móng trao cho vương, nói: “Nước nhà yên nguy, do số trời cả, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì.” Vương mệnh thần Cao Lỗ(còn gọi Cao Thông), tạo nỏ, lấy móng rùa làm lẫy,lấy tên Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ. Đường Cao vương bình Nam Chiếuhi đưa quân về qua châu Vũ Ninh, đêm nằm chiêm bao thấy có người lạ tự xưng là Cao Lỗ, nói: "Ngày xưa giúp An Dương Vương, có công đánh lui giặc, bị Lạc hầu gièm pha, phải bỏ đi.Sau khi chết, trời thương không có tội gì, ban cho một dải núi sông này, cho làm chức Quản lĩnh đô thống tướng quân, làm chủ mọi việc đánh dẹp giặc giã, mùa màng cày cấy. Nay theo minh công đi dẹp yên quân giặc, lại trở về bản bộ, không có lời từ biệt thì không phải lễ.” Cao Vương thức dậy, nói chuyện lại với liêu thuộc,làm thơ rằng:
Mỹ hĩ giao châu địa,
Du du vạn tái lai,
Cổ hiền năng đắc kiến,
Chung bất phụ linh đài.
Nhâm tý cửu niên Đông Chu quân thất niên.Gồm bảy nước Tần, Sở, Yến, Triệu, Ngụy,Hàn, Tề
.Năm ấy nhà Chu mất.
Canh thần tam thập thất niên Tần Thủy Hoàng Lữ Chính năm 26. Tần giệt sáu nước, xưng hoàng đế. Bấy giờ người Từ Liêm, Giao Chỉ ta, Lý Ông Trọng, người cao 2 trượng 3 thước. Thời nhỏ đến hương ấp làm lực dịch, bị trưởng quan đánh.Bèn bỏ sang nước Tần làm quan,đến chức Tư lệ hiệu úy.Thủy hoàng đượ thiên hạ, lệnh dẫn binh thủ Lâm Thao, thanh chấn hung nô, lúc già quy điền mà chết. Thủy hoàng lấy làm dị, đúc đồng làm tượng, để ở cửa Tư Mã ở Hàm Dương, bụng tượng chứa được mấy chục người, ngầm lay thì chuyển động được, Hung Nô tưởng đó là hiệu úy còn sống,không dám xâm phạm ( Đường Triệu Xương làm Giao châu đô hộ,đêm thường nằm chiêm bao thấy cùng Ông Trọng giảng "Xuân thu tả thị truyện". Nhân hỏi chỗ ở cũ.Dựng đền thờ, đến khi Cao vương phá Nam Chiếu, thường hiển ứng trợ thuận. Cao vương trọng tu từ tự,tạc gỗ làm tượng, gọi là Lý hiệu úy. Đề ở xã Thụy Hương huyện Từ Liêm).
Đinh hợi tứ thập tứ niên Tần Thủy Hoàng tam thập tam niên. Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương, đặt các quận Quế Lâm nay Quảng Tây Minh Quý huyện, Nam Hải tức Quảng Đông, Tượng quận tức An Nam,cho Nhậm Hiêu làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh các huyện Long Xuyên, Nam Hải, đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà. Hiêu,Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta ( Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn, tính người mạnh tợn nên gọi là Lục Lương)
Tân mão tứ thập bát niên Tần Thủy Hoàng thập thất niên đông thập nguyệt, Tần Thủy Hoàng băng ở Sa Khâu. Nhậm Hiêu, Triệu Đà soái sư lai xâm. Đà trú quân núi Tiên Du Bắc Giang cùng vương chiến,vương đem nỏ thần ra bắn, Đà thua chạy.Lúc đó Hiêu đem thủy quân đóng ở Tiểu Giang tức đô hộ phủ, sau lầm là Đông Hồ, tức là bến Đông Hồ ngày nay, phạm thổ thần, nhiễm bệnh về,nói với Đà:
-Nhà Tần sắp mất, dùng mưu kế đánh Phán, có thể dựng nước
Đà biết vương có nỏ thần, không thể địch nổi, bèn lui giữ núi Vũ Ninh, sai sứ đến giảng hòa. Vương mừng, bèn chia từ Bình Giang nay là sông Thiên Đức ở huyện Đông Ngàn trở lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Đà, phía nam vương trị. Đà sai con Trọng Thủy mười hai túc vệ, cầu hôn con gái Vương Mị Châu, được chấp nhận. Trọng thủy dụ mị châu, xem trộm nỏ thần, rồi ngầm bẻ gãy lẫy nỏ, thay cái khác vào. Vờ về Bắc thăm thân,nói Mị Châu rằng: “Ân tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu lỡ hai nước không hòa, Nam Bắc cách biệt, ta lại tới đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau.” Mị Châu nói: “Thϊếp có cái nệm gấm lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu thì rút lông ngỗng rắc ở chỗ đường rẽ để làm dấu.” Trọng Thủy về cáo Đà.
Quý tị ngũ thập niên tần nhị hồ hợi nhị niên. Nhậm Hiêu bệnh sắp chết,nói Đà :
-Nghe bọn Trần Thắng làm loạn, lòng dân chưa biết theo về đâu. Đất này ở nơi xa lánh, sợ bọn giặc xâm phạm đến đây, muốn cùng ông chặt đường đường vào đất Việt do nhà Tần mở, tự phòng bị, đợi xem chư hầu biến động thế nào.”
Đến khi ốm nặng, lại nói: "Đất Phiên Ngung Hán xưng Nam Thành phụ sơn trở thủy, dựa núi cách sông, đông tây dài mấy nghìn dặm, vả có người Tần cùng giúp, cũng đủ dựng nước, dấy vương, làm chủ một phương. Các trưởng lại trong quận này không người nào đáng cùng mưu bàn, cho nên tôi gọi riêng ông để bảo.” Nhân lấy Đà thay thế. Hiêu tử, Đà liền gửi hịch đến các cửa ải Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê, nói: "Quân giặc sắp đến, phải gấp chặt đường, họp binh tự giữ”Hịch đến nơi, các châu quận đều hưởng ứng. Bấy giờ Đà gϊếŧ hết các trưởng lại do nhà Tần đặt, đem thân thích phe cánh thay làm thú lệnh. Đà phát binh công vương, vương không biết nỏ thần đã mất, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần của ta sao?.” Đà quân đến gần, vương giương nỏ thì lẫy đã gãy rồ. Thua chạy, để Mỵ Châu ngồi trên ngựa, cùng vương chạy về phía nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vương đền bờ biển, hết đường mà không có thuyền, liền gọi rùa vàng mau đến cứu . Kim quy nổi lên mặt nước, mắng rằng: "Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không gϊếŧ đi?" Vương rút kiếm muốn chém Mị Châu. Mị Châu lại nói: “Trung tín trọn tiết, bị người đánh lừa, xin hóa thành ngọc châu để rửa thù nhục này” Vương cũng chém. Máu chảy loang mặt nước, loài trai nuốt vào bụng, hóa làm hạt minh châu. Vương tcầm sừng tê văn dài 7 tấc xuống biển mà đi (tức như ngày nay gọi là sừng tê rẽ nước. Tục truyền núi Dạ Sơn xã Cao Xá ở Diễn Châu là nơi ấy). Trọng Thủy đuổi theo đến nơi, thấy Mỵ Châu đã chết, thương khóc ôm xác đem về chôn ở Loa Thành, hóa làm đá ngọc. Trọng Thủy nhớ tiếc Mỵ Châu, trở lại chỗ Mỵ Châu tắm gội trang điểm khi trước, thương nhớ không nguôi, cuối cùng nhảy xuống giếng mà chết. Người sau được hạt minh châu ở biển Đông, lấy nước giếng ấy mà rửa, sắc ngọc càng sáng hơn.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Chuyện rùa vàng đáng tin chăng? Chuyện thần giáng đất Sần 35, chuyện đá biết nói 36 cũng có thể là có. Vì việc làm của thần là dựa theo người, thác vào vật mà nói năng. Nước sắp thịnh, thần minh giáng để xem đứa hóa; nước sắp mất, thần cũng giáng để xét tội ác. Cho nên có khi thần giáng mà hưng, cũng có khi thần giáng mà vong. An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư? Nhưng thế cũng còn là khá. Đến như lo họa hoạn về sau mà nài xin với thần, thì lòng riêng đã nảy. Lòng riêng một khi nảy mầm thì lẽ trời theo đó mà mất, sao thần lại chẳng gieo cho tai họa! Rùa vàng trút móng thiêng trao cho, bảo là có thể đánh lui được quân địch, đó là mầm họa chăng? Như chuyện thần ban cho nước Quắc ruộng đất mà sao đó nước Quắc cũng mất theo. Sau quả nhiên như vậy. Thế chẳng phải là thần theo người mà hành động sao? Nếu không có lời nài xin, cứ theo đạo lý mà làm, biết đâu quốc thống lại chẳng được lâu dài? Đến như chuyện Mỵ Châu rắc lông ngỗng chỉ đường, thì chưa chắc đã có. Nếu có thì chỉ một lần là phải, thế mà sau này con gái Triệu Việt Vương lại bắt chước mà cũng nói như thế, là làm sao? Có lẽ người chép sử cho rằng nhà Thục và nhà Triệu mất nước đều do con rể, cho nên nhân một việc mà nói hai lần chăng? Thế thì việc ma quỷ làm đổ thành cũng đáng tin sao? Trả lời rằng: Đại loại cũng như chuyện Bá Hữu làm quỷ dữ, sau người nước Trịnh lập con cháu của Hữu,hồn Hữu có chỗ nương tựa rồi thì hết. Thế là trừ bỏ yêu khí, quỷ khôn có chỗ phụ vào nữa thì phải thôi. Đến như sử chép An Dương Vương bại vong là do nỏ thần bị đỗi lẫy, Triệu Việt Vương bại vong vì mũ đâu mâu mất móng rồng, đều là mượn lời để cho vật trở thành thiêng mà thôi. Đại phàm việc giữ nước chống giặc tự có đạo lý của nó, đúng đạo lý thì được nhiều người giúp mà nước hưng, mất đạo lý thì ít người giúp mà nước mất, không phải vì những thứ ấy.
Trở lên là kỷ An Dương Vương, khởi từ năm Giáp Thìn đến năm Quý Tỵ là hết, tất cả 50 năm