Kỷ Nhà Triệu Vũ Đế

Tại vị 71 năm, thọ 121 tuổi.

Triệu thị nhân Tần suy loạn, gϊếŧ Trưởng lại Tần, cư đất Lĩnh Nam, xưng đế, cùng Hán ngang hàng, hưởng quốc truyện tộ, trăm năm sau vong,cũng là bậc anh hùng chi chủ.

Họ Triệu, húy Đà người Chân Định Hán, kiến đô Phiên Ngu nay thuộc Quảng Đông.

Giáp ngọ nguyên niên Tần nhị thế tam niên. Đế chiếm các đất Lâm Ấp, Tượng quận, tự lập làm Nam Việt vương

Ất hơi nhị niên Tây Sở bá vương nguyên niên, Hán vương Lưu Bang nguyên niên.Năm đó, Tần vong.

Đinh dậu tứ niên Sở hạng tịch tam niên, Hán Lưu Bang tam niên đông thập nguyệt, nguyệt thực.

Thập nhất nguyệt, nhật thực.

Mậu tuất ngũ niên Sở Hạng Tịch tứ niên,Hán Lưu Bang tứ niên thu thất nguyệt, sao Chổi mọc ở khu vực sao Đại Giác..

Kỷ hợi lục niên Hán Cao Đế ngũ niên xuân nhị nguyệt, Hán vương tức hoàng đế vị. Năm đó, Tây Sở vong.

Quý mão thập niên Hán Cao đế cửu niên. Đế lệnh hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân..

Ất tị thập nhị niên Hán Cao đế thập nhất niên. Hán đã định thiên hạ, nghe đế cũng xưng vương ở Việt, sai Lục Giả,sang bái đế làm Nam Việt vương, trao cho ấn thao và con so bổ đôi, thông sứ với nhau, bảo vua giữ yên đất Bách Việt, chớ cướp phá. Sử giả đến, đế ngồi xoạc chân chễm chệ gặp Giả. Giả nói:

-Vương vốn người Hán, họ hàng mồ mả đều ở Hán. Nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán,há chẳng sai lầm chăng. Hơn nữa Tần mất hươu, cả thiên hạ cùng đuổi(*). Chỉ có Hán Đế khoan nhân yêu người, dân đều vui theo. Khởi quân từ đất Phong Bái mà vào Quan Trung trước tiên để chiếm giữ Hàm Dương, dẹp trừ hung bạo. Trong khoảng 5 năm, dẹp yên loạn lạc, bình định bốn biển, đó không phải là sức người làm nổi, tức là trời cho.Hán đế nghe vương làm vua ở đất này, từng muốn quyết một phen được thua, nhưng vì dân chúng lao khổ vừa xong,nên bỏ ý định. Sai mang ấn thao cho vương, đáng lẽ vương phải ra ngoài Giao châu nghênh đón bái yết để tỏ lòng tôn kính. Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm sao?

(*):Đây là cách nói tượng trưng cho việc vô số anh hùng hào kiệt thời Tần mạt nói riêng và trong suốt lịch sử nói chung cùng nổi dậy tranh đoạt chém gϊếŧ lẫn nhau để giành thiên hạ.

Đế ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: “Tôi ở đất này lâu ngày,quên mất cả lễ nghĩa.” Nhân hỏi Giả tằng: “Tôi và Tiêu Hà, Tào Tham ai hiền?”

-Vương hiền hơn

-Ta và Hán đế ai hiền?”

Hán đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn dặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn ở, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán Đế sao được?” Đế cười nói: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?.” iả ngồi im lặng, sắc mặt tiu nghỉu. Bèn giữ Giả ở lại vài tháng, nói: “Ở đất Việt này không ai đủ để nói chuyện được. Nay ông đến đây hàng ngày tôi được nghe những chuyện chưa từng nghe.” Cho Giả đồ châu báu giá nghìn vàng để làm vật bỏ bao. Đến khi Giả về, lại cho thêm nghìn vàng nữa.

Bính ngọ thập tam niên Hán cao đế thập nhị niên hạ tứ nguyệt, Hán đế băng.

Canh tuất thập thất niên Hán huệ đế Doanh tứ niên hạ, hán lập nguyên miếu ở Vị Bắc.

Quý sửu nhị thập niên Hán Huệ đế thất niên xuân chính nguyệt, sóc, nhật thực.

Hạ ngũ nguyệt, nhật thực, bị che khuất hết.

Thu bát nguyệt,Hán đế băng.

Ất mão nhị thập nhị niên Hán Cao hậu Lã Trĩ nhị niên hạ lục nguyệt, hối, nhật thực.

Đinh tị nhị thập tứ niên Hán Cao hậu tứ niên Hán cấm Nam Việt mua đồ sắt ở cửa quan. Đế nói: “Cao đế lập ta, ta cùng thông sứ chung đồ dùng. Nay Cao Hậu nghe lời gièm pha, phân biệt đồ dùng Hán, Việt.. Đây ăt là mưu của Trường Sa vương(*), dục ỷ hán uy đức, đồ ngã quốc nhi tịnh vương chi, tự vi công dã.”

(*)Ngô Nhuế thời Hán Cao Tổ được phong làm Trường Sa vương (Thời đó chưa có tập quyền,nên các nước thời đó đều do một phiên vương đứng đầu. Như Yến vương,Trung Sơn vương,Tề vương và cũng chưa phân hai chữ hay một chữ.)

Mậu ngọ nhị thập ngũ niên Hán Cao hậu ngũ niên xuân, đế tức hoàng đế vị, phát binh công Trường Sa, b đánh bại mấy quận rồi về.

Canh thân nhị thập thất niên Hán Cao hậu thất niên. Hán sai Long tự Âm Lâm Lư hầu Chu Táo kích Nam Việt, báo thù việc đánh Trường Sa. Gặp khi nắng to ẩm thấp, bệnh dịch phát, bèn bãi quân. Vua nhân thế dùng binh uy và của cải để chiêu vỗ Mân Việc và Âu Lạc ở phía tây (tức là Giao Chỉ và Cửu Chân), các nơi ấy đều theo.Từ đông sang tây rộng hơn vạn dặm, ngồi xe mui vàng, dùng cờ tả đạo, cho là nghi vệ ngang với nhà Hán.

Tân dậu nhị thập bát niên Hán Cao hậu bát niên thu thất nguyệt, Cao hậu băng, các đại thần nghênh lập Đại vương Hằng, tức Văn Đế

Nhâm tuất nhị thập cửu niên Hán Văn đế Hằng nguyên niên. Hán đế thấy mộ người thân đế ở Chân Định trí thủ ấp, tuế thời phụng tự. Gọi các anh em cho làm quan to, ban cho hậu. Hỏi tể tướng Trần Bình, có thể cử ai sang sứ Nam Việt được, Bình nói Lục Giả thời Tiên đế đã từng sang sứ Nam Việt, hán đế triệu Giả làm thái trung đại phu,1 yết giả làm phó sử, đem thư sang cho đế, rằng:

Kính hỏi thăm Nam Việt Vương rất lao tâm khổ ý. Trẫm là con vợ lẽ của Cao Đế, phải đuổi ra ngoài làm phiên vương ở đất Đại, vì đường sá xa xôi, kiến thức hẹp hòi quê kệch, nên chưa từng gửi thư. Cao Hoàng Đế lìa bỏ bầy tôi, Hiếu Huệ Hoàng Đế qua đời, Cao Hậu tự lên trông coi việc nước, không may có bệnh, người họ Lữ chuyên quyền làm bậy, một mình khống chế ngự được, mới lấy con người họ khác nối nghiệp Hiếu Huệ Hoàng Đế. Nhờ anh linh tông miếu và sức lực của các công thần, đã gϊếŧ hết bọn ấy. Trẫm vì các vương hầu và quan lại không cho từ chối, không thể không nhận, nay đã lên ngôi. Mới rồi nghe nói vương có gửi thư cho tướng quân Lâm Lư hầu, muốn tìm anh em thân và xin bãi chức hai tướng quân ở Trường Sa. Trẫm theo thư của vương, đã bãi chức tướng quân Bác Dương hầu rồi, còn anh em thân của vương hiện ở Chân Định, trẫm đã sai người đến thăm hỏi và sửa đắp phần mộ tiên nhân của vương rồi. Ngày trước nghe tin vương đem quân đánh biên giới, cướp phá mãi không thôi, dân Trường Sa khổ sở mà Nam Quận khổ nhất, nước của vương há được lợi riêng hay sao? Tất phải chết nhiều quân lính, hại các tướng lại tài giỏi, làm cho vợ góa chồng, con mồ côi, cha mẹ mất con, được một hại mười, trẫm không nỡ làm thế. Trẫm muốn phân định đất phong xen kẽ để chế ngự lẫn nhau(**), đem việc ra hỏi, bọn quan lại đều nói: "Cao Hoàng Đế sở dĩ lấy Trường Sa làm địa giới, vì quá chỗ đó là đất của vương, không nên tự tiện thay đổi". Nay dù lấy được đất đai của vương cũng không đủ lớn thêm, lấy được của cải của vương cũng không đủ giàu thêm, cõi đất từ Ngũ Lĩnh về nam, vương cứ việc trị lấy. Tuy vậy, vương xưng là đế, hai đế cùng lập mà không có xe sứ thông hiếu, thế là tranh nhau. Tranh mà không biết nhường thì người có nhân không làm. Trẫm nguyện cùng vương đều bỏ hiềm trước, từ nay trở đi thông hiếu như xưa. Vì vậy mới sai Lục Giả sang đưa tờ dụ, để tỏ với vương bản ý của trẫm. Vương cũng nên nghe theo, chớ làm những việc cướp phá nữa. Nhân gửi biếu vương 50 chiếc áo bông thượng hạng, 30 chiếc áo bông trung hạng, 20 chiếc áo bông hạ hạng. Mong rằng Vương hãy nghe nhạc tiêu sầu và thăm hỏi nước láng giềng.

(**):Nguyên văn: "định địa khuyển nha chi tương chế" (phân định đất đai theo kiểu xen kẻ như răng chó để chế ngự lẫn nhau). Nhà Hán cắt đất phong kiểu cho xen lọt phần đất của phiên quốc nọ với phiên quốc kia để dễ bề chế ngự.

Giả đến, đế tạ rằng: “Cẩn phụng chiếu làm phiên vương, giữ mãi lệ cống.” Do đó hạ chiếu rằng: “Trẫm nghe: hai người hùng không đứng cùng nhau, hai người hiền không ở cùng đời. Hoàng Đế nhà Hán là bậc thiên tử hiền tài, từ nay ta triệt bỏ xe mui vàng và cờ tả đạo là nghi chế của hoàng đế". Nhân viết thư rằng: "Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng chết, hai lạy dâng thư lên hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt, Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu. Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái. Lão phu ở đất hẻo lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực đáng chết, mới sai nội sử Phan, trung úy Cao, ngự sử Bình, ba bọn dâng thư tạ lỗi, nhưng đều không thấy trở về. Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá, anh em họ hàng đều bị gϊếŧ. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước Ngô". Vì vậy mới đổi xưng hiệu là đế, để tự làm đế nước mình, không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông. Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièmpha, cho nên mới đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi, những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm tôi nhà Hán mà thôi. Nay may được bệ hạ có lòng thương đến,được khôi phục hiệu cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi tước hiệu, không dám xưng đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng, 1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tên, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên hoàng đế bệ hạ.”

Lục Giả đắc thư hoàn báo, Hán đế đại duyệt. Tự nhiên nam bắc giao hảo nhị binh, dân có thể nghỉ rồi.

Quý hợi tam thập niên Hán Văn đế nhị niên đông thập nguyệt, hối, nhật thực.

Giáp tử tam thập nhất niên Hán Văn đế tam niên đông thập nguyệt, hối, nhật thực.

Thập nhất nguyệt, hối, nhật thực.

Tân tị tứ thập bát niên Hán Văn đế hậu nguyên tứ niên hạ tứ nguyệt, hối, nhật thực.

Giáp thân ngũ thập nhất niên Hán Văn đế hậu nguyên thất niên hạ lục nguyệt, hán đế băng, chiếu đoản tang.

Tháng chín mùa thu, sao Chổi mọc ở phương tây.

Ất dậu ngũ thập nhị niên Hán Cảnh đế Khải nguyên niên. Hán chiếu sai các quận quốc dựng Thái tông miếu.

Tháng mười một đông ngày bính tuất ngũ thập tam niên Hán Cảnh đế nhị niên , có sao Chổi mọc ở phương tây.

Đinh hợi ngũ thập tứ niên Hán cảnh đế tam niên xuân chính nguyệt,có sao Chổi đuôi dài mọc ở phương tây. Thị nguyệt, hối, nhật thực.

Mậu tử ngũ thập ngũ niên Hán cảnh đế tứ niên đông thập nguyệt, hối, nhật thực.

Quý tị lục thập niên Hán cảnh đế trung nguyên nhị niên hạ tứ nguyệt, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc.

Tháng chín thu, hối, nhật thực.

Giáp ngọ lục thập nhất niên Hán Cảnh đế Trung Nguyên tam niên thu cửu nguyệt, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc. Tháng ấy, hối, nhật thực.

Ất vị lục thập nhị niên Hán Cảnh đế Trung Nguyên tứ niên đông thập nguyệt, hối, nhật thực.

Đinh dậu lục thập tứ niên Hán Cảnh đế Trung Nguyên lục niên thu thất nguyệt, hối, nhật thực. Bấy giờ, đế phàm sai sứ sang Hán, đều xưng vương, giữ lễ triều yết cũng như các nước chư hầu, ở trong nước thì theo hiệu cũ .

Mậu tuất lục thập ngũ niên Hán Cảnh đế Hậu Nguyên nguyên niên thu thất nguyệt, hối, nhật thực.

Canh tử lục thập thất niên Hán Cảnh đế Hậu Nguyên tam niên đông thập nguyệt,mặt trời, mặt trăng đều sắc đỏ.

Tháng 12, sắc mặt trời đỏ tía, năm sao đi ngược chiều ôm lấy chòm sao Thái Vi; mặt trăng đi xuyên vào Thiên Đình Thiên Đình tức là 10 ngôi sao cung viên Thái Vi ở góc hữu sao Long Tinh, ở khoảng sao Dực sao Chẩn; ấy là cung của thiên tử; tòa của ngũ đế.

Xuân chính nguyệt, Hán đế băng.

Nhâm dần lục thập cửu niên Hán Võ đế Triệt Kiến Nguyên nhị niên xuân chính nguyệt, hối, nhật thực.

Hạ tứ nguyệt, có sao to bằng mặt trời mọc ban đêm.

Quý mão thất thập niên Hán Kiến Nguyên tam niên thu thất nguyệt, có sao Chổi mọc ở phía tây bắc.

Cửu nguyệt, hối, nhật thực.

Giáp thần thất thập nhất niên Hán Kiến Nguyên tứ niên. Đế băng, thụy Võ. cháu Hồ lập (sau Trần triều phong đế làm Khai Thiên Thể Đạo Thánh Võ Thần Triết Hoàng đế).

Lê Văn Hưu nói: Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ [như Trung Hoa], đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là hảo đế trong Ngũ Đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vương hiền trong Tam Đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, người Hoa hay Di, chỉ xem ở đức mà thôi. Triệu Vũ Đế khai thác đất Việt ta mà tự làm đế trong nước, đối ngang với nhà Hán, gửi thư xưng là "lão phu", mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta, công ấy có thể nói là to lắm vậy. Người làm vua nước Việt sau này nếu biết bắt chước Vũ Đế mà giữ vững bờ cõi, thiết lập việc quân quốc, giao thiệp với láng giềng phải đạo, giữ ngôi bằng nhân, thì gìn giữ bờ cõi được lâu dài, người phương Bắc không thể lại ngấp nghé được.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Truyện [Trung Dung] có câu: "Người có đức lớn thì ắt có ngôi, ắt có danh, ắt được sống lâu". [Vũ] Đế làm gì mà được như thế? Cũng chỉ vì có đức mà thôi. Xem câu trả lời Lục Giả thì oai anh vũ kém gì Hán Cao. Đến khi nghe tin Văn Đế đặt thủ ấp trông coi phần mộ tổ tiên, tuế thời cúng tế, lại ban thưởng ưu hậu cho anh em, thì bấy giờ vua lại khuất phục nhà Hán, do đó tông miếu được cúng tế, con cháu được bảo tồn, thế chẳng phải là nhờ đức ư? Kinh Dịch nói: "Biêt khiêm nhường thì ngôi tôn mà đức sáng, ngôi thấp mà không ai dám vượt qua". Đế chính hợp câu ấy.