Chương 5

Hôm ấy Trưởng Tôn Tín hàn huyên cả buổi với Thứ sử U Châu, nửa đêm mới về, chẳng hay chuyện đã xảy ra ở dịch quán.

Đến tận sáng hôm sau, hắn vừa thức giấc, dịch thừa đã đến phòng khách xin gặp, dâng lệnh cấm lên.

Trưởng Tôn Tín đang uống trà, chưa nghe dứt câu đã đặt chén xuống, chạy ra ngoài: “Ngươi bảo phong toả núi?”

Dịch thừa kính cẩn đáp: “Vâng, lệnh từ quân doanh.”

Gương mặt tuấn tú thư sinh của Trưởng Tôn Tín đã sầm sì quá nửa: “Họ cử ai đến?”

Dịch thừa lí nhí đáp, nom khá e dè: “Là Đoàn luyện sứ U Châu.”

Trưởng Tôn Tín vỗ trán, chuyện hệ trọng vậy mà chẳng ai báo hắn.

Hắn lướt qua dịch thừa sang tìm Thần Dung, vừa đi vừa càu nhàu trong dạ: Nhẽ nào họ Sơn kia cố nhè lúc mình vắng nhà mới tòi mặt ra!

Hôm nay Thần Dung dậy rất sớm.

Trên bàn yên vị một túi gấm đặc chế, chi chít hoa văn. Tử Thuỵ cẩn thận lấy quyển trục trong hộp gỗ tử đàn ra đặt vào túi, dâng lên bằng hai tay.

Nàng đón lấy cất vào ngực áo, buộc chặt chiếc áo choàng gấm màu xanh ngọc, bước ra cửa.

Đông Lai gầy gò đứng thẳng ngoài sân, đã mặc sẵn đồng phục hộ vệ, nai nịt gọn gàng.

Thần Dung nhìn vết thương kết vảy hết sưng nơi khoé mắt cậu, hỏi: “Thương thế ngươi lành cả rồi?”

Cậu cúi đầu: “Chăm sóc vài ngày đã ổn, xin thiếu chủ an lòng.”

Đương khi trò chuyện, Trưởng Tôn Tín phăm phăm bước đến.

Thần Dung thấy thái độ kia cũng chẳng lấy làm lạ: “Hẳn ca ca đã rõ chuyện lệnh cấm rồi.”

Trưởng Tôn Tín vốn định hỏi họ Sơn đến đây làm gì, bấy giờ trông cách ăn mặc đã hiểu dự tính của nàng: “Muội đích thân đi khám đất?”

Thần Dung đội mũ trùm của áo choàng lên, ngẫm lại điệu bộ rời đi của Sơn Tông hôm qua, khẽ cười: “Ừ, để xem ai dám ngăn ta. Với cả huynh chẳng đã bảo quan đứng đầu xứ này là Thứ sử đấy thôi?”

Trưởng Tôn Tín hiểu ngay ý nàng.

Nàng định cậy quyền Thứ sử để làm trái lệnh cấm.

Hắn không hỏi chuyện Sơn Tông nữa, chẳng nói lời thừa mà lên đường ngay.

Tiểu tổ tông hôm nay đích thân ra trận, đương nhiên phải bầu bạn đến cùng.

Có điều trước khi xuất phát, cố ý phái một hộ vệ đến mời Thứ sử U Châu.

***

Đông Lai dẫn đường, sau khi rời thành, xe ngựa nhắm hướng tây bắc mà phi.

Từ đường cái phẳng phiu rộng rãi đến đường mòn chòng chành con con, tầm nhìn thu hẹp lại, dần dà lộ vẻ quanh co của đường đèo.

Đỉnh núi trập trùng tựa nét mực phớt vắt ngang chân trời của thiên gia, liên miên không dứt, như chạm gót mây.

Chừng nửa canh giờ, ngựa xe dừng lại.

Đông Lai xuống ngựa, tới bẩm Thần Dung: “Thiếu chủ, đến rồi ạ.”

Thần Dung vén màn trông ra.

Gió thu xào xạc, mặt trời treo giữa thinh không, bốn bề núi cao khấp khuỷu, đã đến nơi nàng chỉ định trên bản đồ hôm nọ.

Trưởng Tôn Tín giục ngựa sang: “A Dung, dãy núi này miết mải vô chừng, qua khỏi nó đã ra ngoài ải.”

Hôm xem bản đồ Thần Dung đã rõ, nàng vịn tay Tử Thuỵ xuống xe: “Đi xem thử.”

Đường đèo trắc trở, chỉ có thể cưỡi ngựa hoặc đi bộ.

Thần Dung buộc chặt áo choàng, nhấc váy đi đầu.

Đông Lai sợ có nguy hiểm, vài lần muốn lên trước song luôn phải dừng lại tìm đường, sau rốt cứ để nàng dẫn đoàn thì hơn.

Thần Dung một mạch chẳng ngừng, ai không rõ còn tưởng nàng từng đến đây.

Trưởng Tôn Tín sớm đã xuống ngựa, kề cận sít sao, cuối cùng ai nấy đều theo nàng mà bước.

Hết đường đèo là một con suối cạn.

Thần Dung quan sát cảnh núi xung quanh, lại trông hướng chảy của suối, ngoái đầu nhìn sang hướng bắc, ánh mắt chững lại.

Ải quan hùng vĩ thình lình vắt ngang, đằng đẵng muôn trùng, như rồng ngụp lặn.

Trưởng Tôn Tín cũng đã thấy: “Thì ra cửa quan không xa là mấy.”

Thần Dung lại nhủ thầm: Thảo nào hôm nọ Đông Lai bị Sơn Tông bắt.

Nghĩ đoạn, đến cả quan ải náu mình tựa rồng kia cũng bị nàng khinh khỉnh liếc cho.

Trên thành quan, một nhóm người vừa tuần tra đến đấy.

Hồ Thập Nhất khum tay trước trán dõi ra, ơ thành tiếng: “Sao vẫn cứ là nàng tiểu thư kia!” Gã xoay sang người bên cạnh, “Lão đại, thấy chưa?”

Sơn Tông nhìn xuống.

“Kia kìa!” Hồ Thập Nhất lo chàng chưa thấy, sán lại mách nước.

Nhóm người nọ đứng dưới chân núi, chiếc áo choàng màu xanh ngọc của cô gái trẻ phất phơ đón gió.

Hồ Thập Nhất lầu bầu: “Lão đại, ngài xem dạo này chúng ta sao sao ấy, cứ chạm mặt cái cô đỏng đảnh nọ mãi! Rốt lại họ tới đây làm chi, chạy cả vào rừng sâu núi thẳm, xem lệnh cấm của chúng ta là trò đùa chắc?”

Sơn Tông cho đao tựa khuỷu tay, lần theo tường thành trông xuống, quả nhiên vừa nhìn đã thấy Trưởng Tôn Thần Dung.

Cũng bởi nàng quá nổi bật, vóc người mảnh mai, góc nghiêng trắng nõn như toả sáng dưới ánh mặt trời, loá mắt đến thế, khó mà làm lơ.

Sau đó chàng thấy Thần Dung nhìn chếch sang góc còn lại của quan ải.

Thị lực chàng tốt, nhận ra nàng như vừa nhàn nhạt ban cho nó cái liếc khinh khi.

Sao cơ, thành quan trêu gì đến em?

Chàng buồn cười cong môi, thẳng người dậy, gõ vỏ đao vào tường thành: “Họ làm gì cũng mặc, cứ thẳng thừng xua đi.”

Hồ Thập Nhất nghe thế thót tim, ý bảo gã ra đuổi ấy à?

Thôi đừng mà, gã chiến không lại nàng tiểu thư kia đâu.

Sơn Tông đã quay lưng rời thành lâu, lia mắt nhìn ra ải, lúc dời đi có thoáng trông sang Trưởng Tôn Thần Dung, thấy nàng đang ngẩng đầu ngắm núi.

Trước đây sao chàng chẳng hay cô vợ cũ của mình thích núi non biên ải thế này.

Vừa xuống đến chân thành, chợt nghe tiếng còi rít lên ngoài xa, thình lình vọng thẳng vào tai.

Sơn Tông ngừng bước, thoắt cái lẹ làng: “Mau lên!”

Có nhóm người theo sát chàng, cấp tốc lên ngựa, phi vội mà ra.

Đấy là tin báo của trinh sát, chỉ vang lên khi địch có biến.

Thần Dung đứng kế con suối cũng nghe tiếng còi, ngoái đầu nhìn quanh, lại bị thế núi đối diện thu hút.

Quan sát đôi lượt, nàng buông lời: “Thổ sơn.”

Với nhà Trưởng Tôn, núi có ngũ hành.

Ngọn núi trước mặt có đỉnh phẳng, thế núi vuông vắn, thuộc thổ trong ngũ hành.

Song nó lại kéo dài nối liền với dãy núi dằng dặc, ngầm sinh biến hoá.

Chính sự biến hoá này tương sinh tương khắc, tương trị tương hoá mà thành địa hình nơi đây.

Nếu muốn đãi ra mỏ thì phải nắm được địa hình, ấy là “khám đất”.

Trưởng Tôn Tín đứng cạnh gật đầu: “Ta cũng trông ra được, còn gì nữa không?”

Thần Dung đáp: “Đi xem thử thì biết.”

Chưa dứt lời đã dợm bước, chợt một luồng sáng lướt đến cắm nghiêng xuống dòng suối trước mặt nàng, vẫn đang xung động.

Nàng ngây ra một chốc mới rõ đấy là một thanh đao thẳng cán dài, kinh ngạc quay lại, một nhóm người đang phi ngựa sang.

Người dẫn đầu áo đen giục ngựa lao thẳng đến, cúi xuống rút đao: “Lui về!”

Tiếng còn đây, người đã đi mất. Thần Dung chỉ nhớ ánh nhìn thoáng qua khi chàng ngoái lại, đáy mắt sâu thẳm sắc như đao gọt, lúc xoay đầu vó ngựa tung hoành, bọt sóng nở bừng từng đoá.

Nàng chỉ kịp nhắm mắt, ướt rượt cả người.

“Thiếu chủ!”

“A Dung!”

Đông Lai và Trưởng Tôn Tín gần như cùng lúc chạy đến che chở, ép nàng lùi vài bước mới không đến nỗi bị toán nhân mã tới sau mạo phạm.

Hồ Thập Nhất đến cùng cũng quát: “Nghe rõ chưa? Lui mau!”

Áo choàng Thần Dung ướt sũng, tóc mai tơi tả dán vào gò má. Gió thu lướt đến, nàng lạnh run cả người, mím chặt môi chằm chặp trông theo hướng gã đàn ông kia đi.

Chàng ta thế mà dám phi đao về phía nàng?

Tử Thuỵ sững sờ bởi cảnh trước mắt, lúc tỉnh ra vội sai người nhóm lửa.

Trưởng Tôn Tín mau mắn cởϊ áσ choàng mình đổi lấy cái ướt của Thần Dung, Đông Lai chắn gió hộ nàng.

Thần Dung nhanh chóng được dìu đến ngồi trên tảng đá lót bằng nỉ để hong người, chung quanh cắm đầy cành khô hộ vệ vừa đốn để mắc rèm.

Nàng bình tĩnh lại trước ánh lửa, sờ ngực áo, may mà túi gấm đựng quyển trục là loại đặc chế, không đến mức tránh nổi đao thương, song vẫn chống được nước lửa.

Ngoài kia Trưởng Tôn Tín đang tới lui nhiếc móc: “Họ Sơn kia rõ dơ cái tiếng quý tộc thế gia, chẳng coi ai ra gì, rặt cả phường chợ búa côn đồ! R… Gọi là gì ấy nhờ?”

Đông Lai khẽ nhắc: “Rắn nhà.”

“Chuẩn! Cái đồ rắn nhà*!”

*Ý là “rồng xa sợ rắn nhà”, hoặc “phép vua thua lệ làng”

Thần Dung biết hắn đang xả giận giùm mình, híp mắt nhìn ngọn lửa chập chờn, xoa bàn tay lạnh ngắt, thầm nhủ đấy vốn nào phải con cháu thế gia bình thường, người ngoài sao rõ bộ mặt thật của chàng ta.

Hồi lâu sau, tiếng còi bén ngót dừng hẳn, thế dưng vọng lại một tràng bước chân.

Sau đó là đôi lời chào hỏi giữa Trưởng Tôn Tín và nhóm người vừa đến.

Hắn quen cái nết văn nhã tông tộc trước mặt người ngoài, cũng chẳng muốn để ai hay dáng điệu thảm thương của muội muội, sớm đã giấu tịt bài mắng Sơn Tông ban nãy.

Thần Dung nghe qua đã biết đấy là Thứ sử U Châu.

Thứ sử U Châu đương độ trung niên, mặt trắng râu ngắn, quan bào rõ vẻ văn sĩ hiền hoà, tên là Triệu Tiến Liêm.

Nhận được lời mời của Trưởng Tôn Tín, ông chỉ đến cùng hai tuỳ tùng, hẳn nhiên đã rõ chuyện lệnh cấm.

Thực ra vị trí địa lý của U Châu rất đặc biệt, được xem là thượng châu*, xét ra thì chức quan của ông cao hơn Trưởng Tôn Tín một cấp, có điều ông xuất thân khoa cử hàn môn, không có gia thế, vẫn rất khách sáo với hắn.

*Theo khoanh vùng thì các châu được xếp vào “thượng” là to nhất

Triệu Tiến Liêm từ đầu đã thấy rèm che, bên trong thấp thoáng dáng người yểu điệu bèn không chú ý nhiều, cho là nữ quyến đang tị hiềm.

Ông nói với Trưởng Tôn Tín: “Ta đã rõ chuyện lệnh cấm. Nhị vị ở Trường An đã lâu, chỉ e chẳng hay U Châu trước nay phải phòng tộc Hề và Khiết Đan ngoài ải, Sơn sứ ra lệnh cấm cũng là việc chẳng đành, dẫu sao vẫn mang trọng trách kẻ làm binh.”

Thần Dung nhớ lại “mẻ hàng” mà Sơn Tông nhận từ tay gã râu quai nón, đích xác tộc Hề và Khiết Đan.

Nàng nghe ra ý vị đỡ lời cho Sơn Tông từ vị Thứ sử đây.

Có vẻ cái duyên làm quan của chàng ta ở đất U Châu này không tồi.

Bỗng vọng lại tiếng vó ngựa.

Triệu Tiến Liêm ngoài rèm bảo: “Sơn sứ đến rồi.”

Thần Dung đưa tay vén góc rèm trông ra, tên đàn ông hung dữ với nàng ban nãy đã quay về.

Nhóm chàng đâu mất một nửa, Sơn Tông ghìm cương ở bờ kia con suối.

Triệu Tiến Liêm gọi chàng: “Sùng Quân, sang đây ra mắt Trưởng Tôn Thị lang.”

Sơn Tông vẫn đứng đấy: “Chẳng đành làm phiền các vị, ta không sang đâu.”

Chàng nghiêng đầu ra hiệu cho Hồ Thập Nhất, xuống ngựa, ngồi xổm bên suối, cắp đao vào người, vốc nước rửa tay.

Thần Dung ngồi bên phía này của con suối, trông thấy từng gợn máu xuôi theo tay chàng hoà vào nước.

Sùng Quân là tên chữ của chàng, đã lâu lắm rồi nàng chưa nghe ai gọi.

Hồ Thập Nhất đã đến trước rèm, đang bẩm: “Thứ sử đại nhân khéo thay lại đến, bọn tôi vừa bắt được vài tên giặc đưa tin, đã giải cả vào ngục rồi.”

Triệu Tiến Liêm đáp: “Sơn sứ vất vả rồi.”

Thần Dung đã rõ máu mà Sơn Tông đang rửa là của kẻ khác hắt lên.

Chóng thế đã tắm máu mà về, vậy thì thân thủ phải nhanh đến nhường nào? Nàng bất giác nhủ thầm.

Thấy chàng rửa tay xong bèn rửa đao rồi thu vào vỏ, thong dong ngồi xuống, duỗi một chân ra.

Triệu Tiến Liêm như đã quen với dáng điệu này, cũng không ép chàng sang nữa, xoay hỏi: “Trưởng Tôn Thị lang nghĩ sao?”

Trưởng Tôn Tín hỏi: “Bọn giặc cỏ ấy có khó bắt không?”

Hồ Thập Nhất đáp: “Khó gì đâu, quân doanh bọn tôi cũng chẳng hiền lành gì cho cam.”

Trưởng Tôn Tín chỉ chờ câu này của gã: “Đã thế có gì phải lo? Thứ sử chớ quên, bọn ta tuân theo thánh chỉ mà đến.”

Triệu Tiến Liêm tức khắc đồng lòng: “Nào dám quên đâu, ban nãy ta hỏi ý cậu, chính vì muốn diễn giải suy nghĩ của mình đấy thôi. Theo ta, các vị buộc phải vào núi, Sơn sứ ắt phải phong toả núi này, chi bằng để quân doanh hộ tống các vị sang đây, dẫu sao Thị lang cũng mang theo nữ quyến.”

Trưởng Tôn Tín nín thinh luôn.

Hồ Thập Nhất như phật lòng, khẽ càu nhàu vài câu.

Gió mơn man rèm vải, vọng lại giọng nữ trong veo: “Dám hỏi trên dưới quân doanh, ai là người có thân thủ tốt nhất?”

Triệu Tiến Liêm nghe đoạn cười đáp: “Hẳn phải là Sơn sứ rồi.”

“Vậy ư…” Thần Dung nói: “Thế chi bằng mời Sơn sứ đích thân hộ tống, được chăng?”

Trưởng Tôn Tín khẽ gọi: “A Dung?”

Hồ Thập Nhất cũng buột miệng: “Hả?”

Đầu kia con suối, Sơn Tông sớm đã nghe rõ từng lời, chàng cầm đao đứng dậy, trông về bên này.

Rèm thưa nhẹ vén, có ánh mắt nào đưa sang, rồi lại buông lơi.

Là nàng cố ý.