Chương 4: Người lạ trên bãi biển
Tim Justus nhảy l*иg lên. Vất vả, cậu cố nén một tiếng kêu.
Một chiếc bật lửa được bật và chiếu sáng từ dưới lên bằng một kiểu cách ma quỷ gương mặt của ông Albert, người bây giờ trông giống như một trong những bức tượng bằng đá đang nhô ra từ mọi ngóc ngách của ngôi nhà này. Người quản gia nhìn Justus đăm đăm, bực bội.
- Cậu làm cái gì trong phòng của tôi?
Thám Tử Trưởng chùng người xuống.
- Điện thoại.
Nói dối với Albert không được ích gì. Chắc là ông ta đã lén nghe qua cửa.
- Thế tại sao cậu không hỏi tôi trước?
- Tôi quên. Tôi xin lỗi. Tôi không muốn làm phiền đến ai, vì thế mà tôi đã tự mình đi tìm máy.
Albert như không hề muốn nghe lời xin lỗi đó.
- Ông Carter không thể chịu đựng nổi cái cảnh có kẻ rình mò xục xạo trong nhà ông ấy.
- Nhầm rồi. Ông Carter thậm chí đã trao nhiệm vụ cho tôi rình mò xục xạo ở đây.
- Chắc chắn không phải trong phòng làm việc của tôi.
- Ở khắp mọi nơi - Justus khẳng định - Chúc ngủ ngon!
Cậu sải bước trở về phòng mình. Không quay người thêm một lần nào nữa, cậu đóng cửa lại, rồi, thở ra nhẹ nhõm và đứng tựa vào cánh cửa.
Thám Tử Trưởng thấy trong lòng không yên ổn chút nào. Cái tay Albert này ngay từ giây đầu tiên đã nhìn chằm chặp vào cậu như thể gã chỉ chờ có cơ hội là đâm dao vào lưng cậu trong bóng tối.
Còn ông Carter cũng chẳng đúng với bất kỳ một dạng thân chủ nào trong danh sách xếp loại mà Justus đã soạn thảo ra trong suốt những năm tháng làm thám tử. Rõ ràng là cậu đã sa vào một nhà thương điên. Tại sao cậu lại tới đây mà không nghĩ đến chuyện mang Bob và Peter theo cùng?
Justus bật đèn lên và lần đầu tiên thật sự quan sát căn phòng dành cho khách. Nó được trang trí thật sơ sài, giống như toàn bộ phần còn lại của ngôi nhà. Cả ở đây cũng chỉ có một ngọn đèn trần trụi thòng xuống từ trần. Trong phòng có một giường đơn giản, một tủ và một ghế giờ đây đang đỡ chiếc túi thể thao của Justus. Một cánh cửa dẫn vào một khu phòng tắm bé tí xíu. Những tấm rèm thẫm màu trước khuôn cửa sổ duy nhất đã được kéo kín lại. Giống như trong một khách sạn rẻ tiền. Thật nhục nhã. Có lẽ hay hơn cả là bỏ đi ngay lập tức và đối mặt với nhiệm vụ: tìm cho ra bảy cánh cửa. Dù bí mật đằng sau chúng có là gì chăng nữa.
Justus đã chớm quay đi, nhưng một giọng cảnh báo trong nội tại giữ cậu lại. Trong phòng này còn có cái gì đó khác nữa. Một tiếng rầm rì! Nó lọt vào phòng qua cửa sổ. Justus bước lại gần hơn, đẩy lần rèm tối và nặng trĩu sang bên. Ngay bên dưới chân cậu là mặt biển. Dĩ nhiên rồi! Kể từ khi Justus bước vào ngôi nhà của ông Carter, cậu đã quên khuấy rằng ngôi nhà này nằm bên rìa một bãi cát dốc đứng và những căn phòng phía sau nhà nhìn thẳng ra mặt biển. Một bức tranh đầy ấn tượng. Mảng tường quay ra biển tạo thành mặt thẳng đứng nối phía trên vách đá dốc chóng mặt của bãi biển. Mặc dù phòng của Justus ở lầu một, cậu vẫn ở cao trên mặt nước biền ít nhất cũng 20 mét. Một cú nhảy từ khuôn cửa sổ này là một cái chết chắc chắn. Bên dưới chân cậu thậm chí không có lấy một chút cát nào. Vách đá dẫn thẳng ra biển, và sức mạnh của những đợt sóng nối nhau đập không ngơi nghỉ có lẽ cũng phải vài chục năm mới móc rời được một tảng đá ra khỏi vách đá dựng đứng này. Trong vài ngàn năm nữa, ngôi nhà này, hay những gì còn sót lại của nó, chắc chắn sẽ sụp thẳng xuống biển Thái Bình Dương.
Chìm đắm trong bức tranh hùng vĩ một hồi lâu, rồi Thám Tử Trưởng thúc mình quay đi. Cậu rút từ túi du lịch ra một chiếc đèn pin và rời phòng. Hành lang tối đen và yên lặng như một nấm mồ. Justus lên đường. Tấm thảm dày cộp nuốt chửng mọi tiếng bước chân, khiến Justus hầu như có cảm giác là mình đang trôi bồng bềnh dọc hành lang. Ngay khi cậu lia đèn pin, những bóng tối từ mọi ngóc ngách nhảy bổ ra. Trông như thể những thực thể bằng đá bám vào khoảng tường phía trên những cánh cửa và các khuôn cửa sổ đang muốn xoay đầu lại và theo dõi từng bước chân vị khách. Đây không phải là lần đầu tiên Justus rình mò đi qua một ngôi nhà lạ lúc nửa đêm. Trong những năm tháng làm thám tử, cậu đã nhiều lần thực hiện những việc như thế này. Thế nhưng hiếm khi cậu làm điều đó một mình. Tình hình hôm nay quả thật có khác lạ, khá là đáng sợ...
Thám Tử Trưởng tự khích lệ bản thân, gắng sức bình tĩnh. Không có lý do gì để phải sự hãi. Những gương mặt đang cười nham nhở kia và những hình người đang nhảy múa với đôi cánh dơi chỉ là đá lạnh mà thôi, không có gì khác. Mà nếu có Peter và Bob ở đây, thì cái trò hoảng hốt thường trực của Peter chắc sẽ chỉ góp phần đẩy cậu vào một cơn điên khùng, thay vì một sự trấn an.
Từng chút từng chút một, Justus xăm xoi ngôi nhà. Bên cạnh tầng trệt và lầu thứ nhất, trong sảnh đón khách còn một cánh cửa khác, có lẽ dẫn xuống tầng hầm, nhưng cửa khóa. Từ căn sảnh nọ tỏa ra nhiều khoảng hành lang, có vẻ như dài vô tận, dẫn đến từng hàng cửa đứng kề nhau. Justus không dám mở chúng ra, vì e ngại vớ trúng phòng ngủ của ông Carter. Thế nhưng một số những khuôn cửa rộng hai cánh đang để mở. Một khuôn cửa dẫn vào một Salon khổng lồ nằm ở phần sau ngôi nhà, căn phòng được dọn trống trơn. Nó lớn hơn hẳn tất cả những căn phòng còn lại. Những cửa sổ rất cao được che kín rèm. Justus mạnh bạo kéo những tấm rèm màu đen sang bên. Đứng ở đây người ta có một cái nhìn tuyệt vời ra mặt biển.
Ánh trăng tràn qua lần kính cửa sổ được phản chiếu óng ánh trên nền phòng lát gỗ cổ kính. Justus nhìn quanh, ánh mắt cậu va phải một bức tranh treo tường, màu sắc đã hơi có phần nhợt nhạt, ở một số chỗ màu vẽ đã khô và nứt. Nhưng bức tranh nhìn chung vẫn còn rõ nét: Nó vẽ một cánh cửa lớn bằng gỗ, đứng một mình giữa một khung cảnh thiên đàng, và được chiếu sáng từ phía sau bởi một nguồn sáng siêu nhiên. Cửa đóng, phía trước có một con rắn đang oằn mình chuồn về phía ổ khóa lớn làm bằng sắt, điệu bộ con rắn như đang muốn mở khóa, mở ra con đường đến với ánh sáng. Cảnh vật được viền quanh bởi những dải sương mù uốn lượn. Mà không, không phải sương mù, những đường nét quá sống động. Đây là một ngọn gió xoáy đang xoay xung quanh cánh cửa. Justus chĩa thẳng quầng đèn cầm tay vào ngọn gió đó. Cậu nhận ra là ngọn gió xoáy bao gồm rất nhiều thực thể nhợt nhạt, quấn quyện vào nhau. Một đội quân của những con ma và quỷ đang hoặc cười khúc khích, hoặc cười rộng miệng hoặc gầm gào, chúng chắn phía trước và nhìn trân trân về phía con rắn bằng những cặp mắt khổng lồ, như chờ con rắn mở cửa ra. Bức tranh tỏa ra một thứ ánh sáng u tối, bí hiểm, và thu hút cậu một cách kỳ lạ. Trong góc dưới bên phải, Justus phát hiện thấy một chữ ký đã mờ nhòa: Engstrom-1897. Justus nhận thấy đây là vật trang trí đầu tiên mà cậu phát hiện ra trong ngôi nhà này, ngoại trừ những bức tượng bằng đá.
Một cánh cửa. Vậy ra đây là một cánh cửa được vẽ trên bức tường của phòng Salon. Trong hai con mắt của Thám Tử Trưởng, đây rõ ràng là một lời mách bảo. Mặc dù cậu không biết chính xác lời mách bảo trỏ về hướng nào, nhưng chắc chắn nó liên quan đến câu đố của ông Carter. Bây giờ cậu cần phải tìm sáu cánh cửa còn lại, chắc chắn là chuyện dễ dàng.
Thế nhưng Justus không tìm thấy chúng. Cậu xục xạo toàn bộ căn nhà và xem xét mọi khoảng hành lang, xem xét kỹ lưỡng từng căn phòng có thể vào được. Cuối cùng, cậu tấn công vào những cánh cửa đóng kín. Đứng bên mỗi cánh cửa, cậu dỏng tai nghe chừng nửa phút đồng hồ, sau đó nhìn qua lỗ khóa, trước khi xoay nắm đấm.
Cậu tìm thấy khu bếp, hai phòng tắm và một phòng kho. Có hai cánh cửa nữa trong tầng trệt cũng như căn phòng của Albert bây giờ được khóa chặt. Chắc đó là phòng riêng của ông Carter. Tất cả những phòng khác đều trống trơn. Tuyệt đối trống trơn. Không có đồ gỗ, không có tranh ảnh, không có gì hết. Nhất là chẳng có cánh cửa nào đáng chú ý. Mặc dù vẻ ngoài của ngôi nhà gây ấn tượng bí hiểm, nhưng thật ra bên trong chẳng có gì nhiều mà tìm kiếm. Cứ như thể ông Carter mới chuyển về đây sinh sống, dù cho Bob nói rằng ông ta mua ngôi nhà đã vài năm nay.
Justus thấy mỏi mệt. Trong ánh sáng ban ngày mọi thứ trông sẽ khác hẳn. Cuối cùng cậu nhủ thầm như vậy, quay trở về phòng mình và ngả lưng xuống giường. Chỉ vài phút sau, cậu đã ngủ thật say.
° ° °
Khi Thám Tử Trưởng tỉnh dậy thì trời vẫn còn tối. Phải một lúc lâu cậu mới hiểu mình đang ở đâu. Justus nhìn xuống đồng hồ, hơn 4 giờ sáng, có thể nói là vẫn còn đêm. Dạ dày cậu gầm gào. Chẳng đáng ngạc nhiên. Suy cho cùng thì cậu đã phải bỏ qua hoàn toàn bữa tối hôm qua. Mà nếu ngôi nhà kỳ quặc này có bữa điểm tâm thì cũng phải vài tiếng nữa mới tới giờ.
Một lúc sau, Justus gắng sức ngủ tiếp mà không được. Cậu tỉnh như sáo. Ngoài ra, cậu thấy lạnh. Chả lẽ cậu lại phải tỉnh dậy vào giờ này? Thật là điên khùng. Nhưng mà mặt khác... có thể cậu sẽ tìm thấy trong khu bếp một chút đồ ăn.
Đúng lúc Thám Tử Trưởng vẽ lên trong trí tưởng tượng những món ăn hấp dẫn nhất đang chờ sẵn trong tủ lạnh, thì một tiếng động khẽ khàng trộn lẫn vào tiếng rì rào của sóng biển, vang đến bên tai cậu. Đó là tiếng bước chân xào xạo trên sỏi, đang vang lên ở đâu đó phía ngoài cửa sổ. Justus đứng dậy, bước đến bên khuôn kính, nhưng không bật đèn lên. Bên ngoài vẫn là trời đêm, nhưng mặt trăng đã nhô lên và phủ một lớp ánh sáng óng ánh tinh nghịch lên mặt nước chuyển động. Justus dí sát mũi vào lần kính, nhìn thẳng xuống dưới.
Nước thủy triều đã rút xuống, ở nơi cách đây vài tiếng đồng hồ còn là những đợt sóng Thái Bình Dương vỗ thẳng vào vách đá, giờ xuất hiện một dải hẹp cát trộn đá cuội. Nhưng viên đá óng ánh ẩm ướt và bị tảo mọc trùm lên quá nửa. Giữa những đám tảo biển trơn trượt ấy đang có một dáng người chuyển động. Justus nheo mắt. Người đó ở quá xa, và trời quá tối, cậu không thể nhìn rõ. Thế nhưng cái thân hình gầy nhẳng kia với dáng cúi về phía trước, bước đi chập chững - có phải đó là ông Carter?
Người đàn ông dừng lại và nhìn ra phía biển. Ông ta đang chờ điều gì chăng? Thám Tử Trưởng đưa mắt lướt qua mặt nước, nhưng cậu không nhận thấy dấu hiệu lạ nào trong ánh trăng. Không có thuyền, không có tàu, không có tín hiệu. Rất có thể người đàn ông chẳng tìm tòi gì cả, mà chỉ đang thực hiện một cú đi dạo nửa đêm.
Justus tiếp tục quan sát. Thời gian trôi qua, người kia không chuyển dịch. Chỉ thỉnh thoảng lại làm động tác siết chiếc áo khoác chặt hơn nữa vào người, để chống ngọn gió lạnh. Cả Justus cũng phát cóng. Chiếc áo len dày dặn đang để trong túi du lịch. Liệu cậu có thể liều lĩnh buông lơi người đàn ông một chớp mắt không? Thám Tử Trưởng chần chừ. Nhưng cuối cùng cái lạnh đã thắng. Cậu rời vị trí quan sát của mình, lần mò trong bóng tối tìm túi du lịch. Cậu không bật đèn lên, không muốn gây chú ý. Một lúc sau cậu mới tìm thấy áo len. Vội vàng, cậu mặc áo vào người và quay trở lại cửa sổ.
Người đàn ông đã biến mất.
- Chó chết! - Justus mím môi rít lên và nóng nảy đưa mắt tìm dọc bãi đá, nhưng không kết quả: người lạ mặt đã bỏ đi. Cả trên mặt biển cũng chẳng có chuyện gì khác lạ. Cứ như thể chưa từng có người đàn ông đó trên bãi biển.
Giờ thì Justus tỉnh hẳn. Không thể nghĩ đến chuyện ngủ tiếp. Dù trời vẫn còn là đêm, nhưng cậu không thèm để ý nữa. Thật nhanh, cậu mặc quần, đi giày, giơ tay cầm đèn pin rồi bước ra hành lang.
Trong nhà vẫn yên lặng và tối đen. Justus đi ra phía cầu thang, nhìn xuống sảnh đón khách. Tất cả đều yên lặng. Vậy mà đúng lúc Justus bước xuống bậc thang đầu tiên thì một tiếng động lớn đột ngột vang lên đâu đó trong nhà. Cậu giật nảy người lên. Cái gì thế? Nghe như tiếng cửa đập. Nhưng tiếng động đó xuất phát từ hướng nào? Tiếng động vẫn còn vang vọng lại từ những bức tường đá lạnh lùng: nhưng Justus không xác định được nguồn gốc của nó. Tim đập thình thình, cậu đứng yên lắng nghe, hầu như không dám thở. Thế rồi mọi vật lại trở lại im lặng như lúc trước. Im như trong một nắm mồ.
Suốt một phút đồng hồ, cậu giữ yên vị trí trên cầu thang. Thế rồi cậu tiếp tục con đường của mình, đi xuống phía cánh cửa dẫn vào nhà. Cánh cửa nhỏ được khoét vào cánh cửa lớn không bị khóa. Justus mở cửa, bước ra ngoài với gió lạnh. Mặc dù cánh cửa không tự động sập vào ổ, nhưng Justus vẫn muốn cẩn thận chèn một viên đá vào giữa. Khi cúi xuống đi tìm một viên đá thích hợp, Justus quét quầng đèn của cậu lên nền đất mọc đầy cỏ. Đúng lúc cậu mới rời khuôn cửa khoảng chừng một mét thì bất chợt một cơn gió mạnh thổi ngang qua ngôi nhà - và cửa sập lại. Justus nhảy lùi về, ấn người vào cánh cửa, nhưng nó không nhúc nhích nữa. Cửa này không có nắm đấm từ phía ngoài, chỉ có một lỗ khóa. Dĩ nhiên là cậu không có chìa khóa. Thám Tử Trưởng đã tự giam mình ở phía ngoài.