Quý Đằng thẫn thờ.
Hình Tu thì chẳng nói gì thêm, nhanh chóng buông tay, một khoảng trống nho nhỏ len lỏi vào giữa hai người. Khi mà đã xuất hiện cách trở, chút hơi ấm còn sót lại liền bị thổi bay mất hút theo làn gió đêm, đồng thời cũng cuốn đi mất mọi biểu cảm trên mặt Hình Tu. Từ giây phút ấy cho đến tận khi rời đi, Hình Tu đều chẳng khác chi vừa đeo lên chiếc mặt nạ, không một xúc cảm nào được thể hiện ra, thậm chí còn chẳng buồn nhìn cậu lấy một cái.
Hề Đao và Lạc Hạ Thạch bốn mắt nhìn nhau, Lạc Hạ Thạch kéo sợi dây buộc con phỉ. Nhóc Phỉ quay đầu lại, con mắt rưng rưng mở to, cách nó nhìn Quý Đằng, sao như quyến luyến chẳng nỡ rời xa.
Dù vậy, sau cùng cũng đến lúc phải đi rồi.
Quý Đằng vẫn đứng đực mặt ra giữa giao lộ, ngóng trông có người sẽ ngoái lại nhìn cậu lần nữa, có người sẽ gọi tên cậu lần nữa, thế nhưng ai nấy đều cứ đi thẳng một mạch, đến tận khi khuất bóng.
Ngay chính vào lúc họ biến mất khỏi tầm mắt, dường như những gút mắc trong lòng Quý Đằng đã được tháo gỡ, khóe mắt cậu cay xè, đứng ngay đầu ngõ chửi đổng lên: “Quân khốn nạn! Toàn một lũ cầm thú mất hết tính người! Bộ quay đầu nhìn một cái thì chết hay gì?! Tốt xấu gì cũng cùng chung hoạn nạn lâu như vậy rồi! À đâu, cả con bò của tui còn nhớ ngoảnh lại trông tôi lần cuối, đám mấy người rõ là đến cầm thú còn không bằng mà!”
Quý Đằng lại chẳng hay bản thân mình đang bực bội điều gì, lo lắng chuyện gì mà phẫn nộ vì điều gì nữa, chỉ thấy cả người cứ bứt rứt khó chịu, như thể không giậm giò giậm cẳng chắc cậu chết mất thôi! Cậu đứng giữa con ngõ tăm tối mắng xối xả một thôi một hồi, đáp lại cậu chỉ có tiếng gió thổi vi vu, khiến cậu càng thêm ủ dột. Thì ra ba cái trò la làng la xóm này, nào có như cậu nghĩ, hễ mở miệng ra là lời chửi tự tuôn trôi chảy thế đâu, phải có bài bản lớp lang đàng hoàng cả đấy, thế mới thấy, mấy bà thím có thể đứng giữa con phố vắng tanh như chùa bà đanh mà mắng sa sả hàng giờ đồng hồ không biết mệt, mới thật là nhân tài.
Quý Đằng chả buồn đi tìm kiếm họ nữa, lại chẳng muốn quay về nhà, sau cùng đến trò chửi đổng cũng trở nên chắn ngắt rồi, chỉ còn biết ngồi vò võ nơi góc phố.
Khu vực đầu ngõ vốn đáng sợ là thế, mà nay chẳng còn chi để sợ nữa rồi, nào là mấy ngọn gió tanh tưởi, nào là tiếng rì rầm của đám oan hồn, nào là những luồng oán khí hung tợn, tất cả đều chẳng đáng một xu so với tâm trạng sầu muộn của cậu hiện giờ! Cậu lúc này hệt như bị ai rút cạn sinh lực rồi vậy, chẳng thiết tha với bất kì điều gì nữa, tình trạng ấy không khác gì vừa bị bại liệt vừa trầm cảm nặng, muốn chết không được mà muốn sống càng chẳng xong.
Trên con phố ấy, rõ ràng không phải chỉ có mình Quý Đằng đang cảm thấy đau khổ, song là người, mà đau khổ, thì hẳn là chỉ có mỗi mình cậu.
Lướt qua trước mặt cậu là vô số đôi chân trần, rồi chân mang giày rơm, chân mang hài thêu, hệt như buổi triển lãm giày dép, cứ thế lượn lờ qua lại miết, nhưng chả cần ngước lên nhìn cũng biết, chẳng có thân trên, chỉ có mấy cặp giò mà thôi. Một lúc lâu sau, lại có những ngón tay phụ nữ mảnh khảnh trắng ởn vuốt ve mặt cậu, rồi những đốt ngón tay đàn ông thô kệch túm lấy vai cậu, cấu chặt vào, lôi kéo cậu, lay người cậu.
Quý Đằng thừa biết đây đều là oan hồn đang quấy nhiễu, nếu là lúc trước có khi cậu đã sợ vãi ra quần rồi, nhưng sau khi trải qua biết bao nhiêu chuyện như vậy, lúc này đây cậu đã suy sụp tinh thần đến mức chẳng hơi đâu mà để tâm đến chúng nữa.
Đám ma quỷ chết oan ấy cũng cực chẳng đã mới phải làm thế, bọn chúng mà muốn lôi kéo ai theo, thì chỉ có thể trông chờ vào việc hù cho người đó hoảng hồn, con người một khi đã khϊếp vía rồi, tinh thần sẽ bấn loạn, dương khí tiêu tan, hồn phách dễ dàng bị tha đi mất.
Thế mà hiện thời, Quý Đằng chỉ mải toàn tâm toàn ý với nỗi đau của lòng mình, phát huy sự tập trung tinh thần cao độ trước nay chưa từng có, gần như đạt đến cảnh giới nhập định của các vị cao tăng, lèo tèo vài oan hồn nơi đây, còn khướt mới lay động nổi tâm tư cậu.
Chẳng qua cứ bị quậy miết như thế, đúng là đã phiền lại còn phiền hơn.
Ngày hôm sau, khi người dân trong làng phát hiện ra Quý Đằng trên phố, ai nấy đều sốc nặng. Âu cũng bởi mấy đêm gần đây đất trời bất ổn, ma quỷ phá phách, đã có vài người bị dọa cho chết tươi hoặc phát điên rồi, mọi người đều chẳng dám ra đường nữa. Vậy mà Quý Đằng ở ngoài một mình suốt nguyên đêm, lại chẳng hề hấn gì?
Liên tưởng đến việc dạo gần đây cậu chàng thường hay qua lại với một vị trông có vẻ tiên phong đạo cốt, quần chúng bèn phán luôn rằng ắt hẳn người nọ đã truyền thụ bí quyết gì đó cho Quý Đằng rồi, thế là một đám người nhào vô ton hót nịnh bợ Quý Đằng tới tấp.
Quý Đằng chịu không thấu sự nhiệt tình của bà con chòm xóm, tâm trạng có buồn rầu tới đâu cũng ráng đáp lời: “Có gì đâu, thì tại hồi đó từng nghe kể rằng, ngón giữa bàn tay phải là nơi tập trung nhiều dương khí nhất trên cơ thể người, chỉ cần dùng mũi kim chích vào đầu ngón tay, máu chảy ra từ đó có thể trừ tà í mà. Khổ nỗi đêm hôm khuya khoắt kiếm đâu ra kim châm? Tôi mới nghĩ cách ứng phó tạm. Thế là cứ mỗi khi có oan hồn tới làm phiền, tôi liền như vầy,” Quý Đằng giơ ngón giữa lên, quay đúng một vòng cho mấy người đang bu đông bu đỏ coi, “Coi mòi cũng có tác dụng dữ lắm.”
Bà con cô bác bị dựng thẳng ngón giữa chĩa vào mặt đều tỏ ra rất chi là hâm mộ ước ao.
Chỉ trong buổi chiều hôm ấy, bí thuật này đã được lan tỏa khắp đầu đường cuối ngõ trong ngôi làng nhỏ bằng tốc độ nhanh đến chóng mặt, sau đó lại được các thương lái đi ngang qua đây truyền bá trên phạm vi rộng hơn. Thủ pháp này nhờ vào sự tiện lợi, dễ học dễ làm, hiệu quả khỏi phải bàn mà chẳng cần sắm sửa thêm công cụ gì, đã vậy còn có thể tái sử dụng nhiều lần. Những điều vừa kể trên đều là ưu điểm mà các loại bửu bối khác khó thể sánh bằng, hệ quả là nó đã trở nên thịnh hành suốt một thời gian dài.
Đương nhiên về phần vì sao khi thời gian dần trôi, động tác trừ tà đuổi quỷ hết sức nghiêm túc này lại dần trở thành ngôn ngữ cơ thể hàng đầu thế giới, với hàm ý ác ôn hơn hẳn, thì để sau này hẵng bàn vậy.
Nhân đây kể luôn, bí thuật này sau khi lưu truyền đến xứ Phù Tang ở phía đông, từ một động tác mang tính biểu trưng, đã phát triển thêm tầng ý nghĩa phức tạp hơn, bị gắn cho cái mác là thuật kết ấn tay gì gì đấy. Sau vài lần thay da đổi thịt, đã lừa cho không ít quần chúng nhân dân lầm tin rằng đây là sản phẩm ngoại nhập. Kỳ thật quanh đi quẩn lại cũng chỉ nhiêu đó kiểu, dân chúng chịu khó tìm hiểu tí là truy ra được nguồn gốc ấy mà.
Giữa lúc khắp hang cùng ngõ hẻm ngập giữa một rừng ngón giữa chĩa lên trời, Quý Đằng thất thểu lê đôi chân ì ạch về tới nhà, vừa bước vào trong, đã thấy nhà cửa banh chành như cái nồi cám lợn.
Chị dâu tinh mắt liếc thấy cậu về, liền hất hàm lên giọng: “Nhị gia về rồi kìa!”
Lão quản gia hộc tốc xộc tới: “Lão gia với mấy người khách đều không thấy đâu nữa!”
Làm sao mà thấy được nữa, người ta đang mải đi tìm kẽ hở của Âm Dương Đạo, bỏ lại cậu một mình rồi còn đâu, đi hết trơn hết trọi rồi! Quý Đằng nghĩ mà tức cái mình, nhưng lại chẳng thể giải thích như vậy với họ được, đành bảo: “Không sao đâu, mấy ngày nữa sẽ tự động về thôi.”
Những ánh mắt chĩa về phía Quý Đằng bỗng thay đổi chớp nhoáng, như hóa thành phi tiêu phóng về phía cậu chíu chíu.
Quá hiển nhiên luôn, vốn ban đầu là cả đám đều biến mất, nhưng rồi Quý Đằng lại trở về, mấy vị khách thì khá xa lạ, đâm ra tông tích của lão gia, cậu là người rõ nhất còn gì.
Quý Đằng chẳng trách họ nghi ngờ mình, cơ mà chuyện này kể ra cũng chẳng ai tin, chỉ đành nói: “Mấy người yên tâm, đại ca không sao cả, chỉ là đi theo mấy đạo sĩ nghe thuyết pháp thôi. Đằng nào chả có tôi ở nhà, nếu ba ngày sau đại ca vẫn chưa về, muốn đập chết hay làm gì tôi đều được, tôi tuyệt đối sẽ không buông lời oán thán.”
Dạo gần đây, anh em Quý Quân, Quý Đằng bỗng thân thiết với nhau vô cùng, mà Quý Quân lại răm rắp nghe lời tay đạo sĩ trẻ măng tên Hề Đao nọ, đây là chuyện ai nấy đều thấy được. Quản gia với bà chị dâu đưa mắt nhìn nhau, thái độ chợt trở nên mềm mỏng hơn: “Thế thì, cảm phiền nhị gia ở nhà tĩnh dưỡng vài hôm, hạn chế ra ngoài vậy.”
Quý Đằng hiểu, kiểu này là tính giam lỏng cậu đây mà, song cậu cũng chẳng bận tâm, chỉ lo về thẳng phòng ngủ, chuẩn bị gặm nhấm nỗi buồn một mình. Ấy thế nhưng ông trời ổng quá đáng lắm luôn, cậu còn chưa kịp ấp ủ được miếng buồn thương nào, ngoài sân đã xôn xao huyên náo cả lên rồi.
Quý Đằng hết nhịn nổi nữa mới ra ngoài sân coi thử: “Làm cái gì đấy, sao mà ồn ào như vỡ chợ vậy!”
Lão quản gia và đám nô bộc lập tức nín bặt.
Quý Đằng cảm nhận được có ánh mắt rà tới rà lui trên người mình, thế nhưng khi cậu truy tìm chủ nhân của ánh mắt, thì tất cả đều cúi gằm mặt xuống.
Thứ cảm giác này khiến cậu bồn chồn không yên, dường như bọn họ có điều chi muốn nói, nhưng lại chẳng dám nói vậy.
“Xảy ra chuyện gì?” Quý Đằng hỏi thẳng.
“Nhị gia, không có gì đâu, chỉ là đang quyết định xem nên cử ai đến hầu hạ cậu thôi.” Lão quản gia đáp.
Quý Đằng quan sát thái độ rụt rè e sợ, không một ai dám xung phong của đám nô bộc, mới nói: “Cứ chọn đại là được chứ gì.”
Mấy đứa hầu đưa mắt nhìn nhau, không lên tiếng.
“Mấy người dòm tôi làm gì? Muốn gì thì phải nói chứ.” Sau rốt Quý Đằng mất hết kiên nhẫn rồi, hỏi thẳng, “Rốt cục là như thế nào đây?”
Lão quản gia nạt nộ đám nô bộc vài câu, mới lí nhí đáp: “Lão gia với nhị gia chết đi sống lại, đây vốn là chuyện hết sức đáng mừng, thế mà mấy đứa ngu dốt này, chỉ biết lén lút đặt điều nói xấu. Cũng khó trách tụi nó, hồi nào giờ lão gia vốn không tin nhất chính là thần, thứ hai là phật, thứ ba mới đến quan phủ, thế mà nay đột nhiên lại tỏ ra hết sức cung kính thỉnh đạo sĩ về nhà, nếu là khi xưa, nói ra ai mà thèm tin. Mỗi tội từ đó trở đi, thời tiết trong làng liền bắt đầu thay đổi, lúc nào trời cũng âm u, cậu nói coi vùng đất này của chúng ta, quanh năm suốt tháng, có được mấy ngày mây mù đâu, thế mà sao dạo này cứ vậy miết? Đã vậy tối qua còn có một quái thai chào đời, chao ôi. Đám nô bộc bắt đầu buông lời đàm tiếu, rằng kỳ thực chẳng phải lão gia sống lại đâu, mà là có thứ gì đó nhập vào xác lão gia đấy chứ, sự ra đời của quái thai chắc chắn chính là tai họa mà ông trời giáng xuống, tên đạo sĩ kia nom bề ngoài sáng sủa ưa nhìn nhưng thực chất có khi chẳng phải hạng tốt lành gì đâu—”
Quý Đằng hết đường chối cãi, mấy cái khác thì thôi không nói, nhưng riêng ba điểm này thì phán trúng phóc rồi, phải chăng đây chính là ‘trí tuệ của đám đông’ trong truyền thuyết?
-Hết chương 36-