Chương 18: Trôi dạt 2

Khi những đám mây tiếp sức cho cơn bão rớt lại đằng sau rất xa, những tia nắng mùa hạ bắt đầu chảy xuống qua vùng mây phía trước, tạo thành những mảng sáng tối xen trên mặt biển như vô số ngọn đèn pha.

Lúc đó là ba giờ chiều. Trước mặt, hướng biển cảng, có thể trông thấy mặt nghiêng của một con tàu như một chiếc du thuyền đang trôi từ vùng tối ra khoảng sáng. Sau khi căng mắt về phía ấy, Kazuo dùng ống nhòm nhìn lại cho chắc. Đó là một tàu tuần dương dạng nhỏ đang ra khơi. Tuy có vẻ như xuất hiện từ một khoảng trống giữa các đám mây, nhưng nó đang hướng thẳng về phía mạn trái tàu họ như thể định cắt ngang đường tàu Wakashio VII – lúc này đang chạy chế độ lái tự động. Kazuo kéo năm hồi còi hơi liên tục. Ngoài để cảnh báo về hướng đi của tàu tuần dương cho mọi người trên tàu mình, tín hiệu đó còn có có nghĩa là cảnh báo con tàu đó. Sau khi kéo còi, Kazuo lại nhìn vào ống nhòm lần nữa. Tàu đó vẫn đang di chuyển, buồm hạ. Chẳng có dấu hiệu của bất cứ ai trên tàu. Dù gì thì loại tàu đó cũng phải có người đứng điều khiển chứ! Không có người canh chừng, lúc nào cũng có nguy cơ va chạm.

Kazuo lại kéo còi, trong lúc vẫn đang quan sát con tàu đó qua ống nhòm. Không ai xuất hiện trên boong. Anh tự hỏi không biết có phải toàn bộ thủy thủ đoàn đã lăn ra ngủ trên cabin không. Tất nhiên là anh chẳng thể nào nghĩ ra cách nào khác nữa để giải thích cho việc hoàn toàn không có một bóng người nào trên boong tàu. Trông đáng ngờ như một con tàu ma, con tàu tuần dương đó đang hùng hổ tiến đến như sắp va vào tàu Wakashio VII.

Kazuo gọi ngay Thuyền trưởng Takagi và thông báo tình hình. Viên Thuyền trưởng lặng lẽ chăm chú quan sát tàu tuần dương kia bằng mắt thường trong lúc Kazuo chờ đợi.

“Quái, quái thật,” cuối cùng Thuyền trưởng Takagi lẩm bẩm một mình trước khi đưa động cơ tàu mình về số không. Động cơ ngừng quay, nhưng con tàu vẫn tiếp tục trôi về phía trước do quán tính của chính nó, trước khi ngừng hẳn. Lúc này thân tàu tuần dương đã ở ngay bên dưới boong tàu Wakashio VII. Nhìn kĩ hơn thì nhận ra cái mà họ tưởng là tàu tuần dương nhỏ thực ra lại là một du thuyền sang trọng, dài khoảng hơn mười hai mét. Boong du thuyền màu trắng, toàn bộ phần thân còn lại đều sơn màu nâu nhạt vương giả, với một đường viền kép chạy dọc theo hai bên. Họ trông thấy một bể lặn đặt trên đuôi thuyền được uốn cong rất đẹp. Chỉ nhìn qua cũng thấy ngay rằng chủ chiếc du thuyền này phải vô cùng giàu có.

Các thủy thủ túm tụm thành nhóm hai, ba người trên boong dọc mạn trái. Từ đó họ gọi vọng xuống chiếc du thuyền.

“Có ai dưới đó không?”

Tiếng gọi gặp đi lặp lại của họ không nhận được một lời đáp trả từ chiếc du thuyền. Không một khuôn mặt nhô lên từ cabin bên dưới. Một chiếc du thuyền dài mười hai mét loại này bình thường sẽ có ít nhất bốn đến năm người ở trên đó.

“Chúng ta nên làm gì đây?”

Người phụ trách neo buồm, Shibasako quay sang thuyền trưởng chờ chỉ thị, nét cau có hiện lên trên mặt anh. Rõ ràng là anh chỉ muốn mặc xác vụ này và tiếp tục chạy hết tốc lực về phía trước, về cảng nhà của họ ở Misaki.

“Ừm, chúng ta không thể vờ như chưa thấy nó được.”

Thuyền trưởng Takagi sau đó cũng thôi không khoanh tay nữa và lệnh cho một thủy thủ cấp thấp hạ một chiếc xuồng xuống. Chiếc du thuyền có thể đang gặp nạn, và ông không thể cứ thế mà lờ nó đi và tiến về phía trước.Giúp đỡ tàu thuyền gặp nạn là nghĩa vụ của một thủy thủ chân chính.

Một sợi dây thừng từ Wakashio VII được buộc chắc vào cọc đầu dây ở mũi du thuyền. Sau khi ngăn nó không trôi ra xa, một thủy thủ bèn lên thuyền. Anh xem xét qua khu cabin rồi gọi với lên.

“Không có ai ở đây hết!”

“Kiểm tra kĩ lưỡng các giường ngủ!”

“Chẳng có ma nào trên thuyền cả, thưa Thuyền trưởng!” Rồi anh ta hạ giọng nói thêm, bớt dõng dạc hơn, “Chuyện này có gì đó thật kì quặc…”

Nhưng những lời này đã bị tiếng gầm của Thuyền trưởng át mất: “Cho tôi số đăng kí của nó!”

Anh này đọc to số đăng kí trên cả hai bên thuyền: “KN201785, thưa Thuyền trưởng!” KN có nghĩa là du thuyền này được đăng kí ở Kanagawa.

“Nghe rõ rồi. Ở đó và chờ các chỉ thị tiếp theo.”

Trở lại đài chỉ huy, thuyền trưởng gọi điện thoại qua mạng viễn thông vệ tinh Inmarsat cho trụ sở Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 ở tỉnh Kanagawa để báo cáo về việc một du thuyền không người đang tự trôi ở vị trí 29 độ vĩ Bắc, 141 độ kinh Đông. Khi được yêu cầu miêu tả chi tiết chiếc du thuyền lúc được phát hiện, thuyển trưởng Takagi đã mô tả trung thực những gì ông vừa trông thấy.

“Có người nào trôi nổi quanh nó không?”

“Không.”

“Có vật nào trôi nổi gần nó không?”

“Không.”

“Có đàn cá hay chim nào đáng ngờ không?”

“Không.”

Mọi câu hỏi chỉ nhận được các câu trả lời y hệt nhau: “Không.” Chiếc du thuyền đơn giản là nằm đó, trôi nổi trên mặt nước bình lặng, buồm đang hạ.

Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 liên lạc với đội cứu hộ bằng máy bay tại Haneda, và ngay lập tức người ta sắp xếp cử một máy bay đến vùng biển đó. Trong suốt hai hay ba giờ chờ cho đến lúc máy bay đến được vùng biển chỗ họ, tàu Wakashio VII buộc phải ở nguyên vị trí và trông chừng chiếc du thuyền bị bỏ mặc kia.

Mười chín thủy thủ của tàu Wakashio VII phản ứng lại sự việc này theo một trong hai cách: một số ca cẩm vì bị cầm chân trong khi đã ở gần Nhật Bản đến thế; những người khác băn khoăn về chiếc du thuyền bí ẩn tự dưng xuất hiện ấy. Kazuo thuộc nhóm thứ hai. Anh luôn mơ đến việc một ngày nào đó sẽ được lái một chiếc du thuyền sang trọng hệt như thế khắp đại dương, ra nước ngoài. Sự xuất hiện bất ngờ của chiếc du thuyền này theo cách nào đó là điềm báo rằng giấc mơ của anh sẽ trở thành hiện thực. Anh cảm thấy bị thôi thúc mạnh mẽ phải lên nó.

Họ đã đợi được hai tiếng rưỡi trước khi nghe thấy tiếng ầm ầm của máy bay đang tiến tới, chiếc máy bay do Phân khu An toàn Hàng hải Số 3 cử đến.

Chiếc trực thăng bay cao vòng vòng trên tàu Wakashio VII vài lần, tìm kiếm kĩ bằng chứng nào chứng tỏ có người trôi dạt. Nó sục sạo khu vực gần ba mươi phút rồi quay đầu trở về căn cứ.

Bước hành động tiếp theo được thảo luận trong cuộc điện đàm thứ hai giữa tàu Wakashio VIII và Phân khu An toàn Số 3. Nếu con tàu cá có bất cứ nghĩa vụ gì với chiếc du thuyền bỏ hoang, thì nó cũng đã hoàn thành bằng cách thông báo cho Cơ quan An toàn Hàng hải. Trong suốt thời gian chờ cơ quan này cử trực thăng đến để xác nhận báo cáo, tàu Wakashio VII đã luôn giám sát du thuyền đó. Chẳng có lí gì để bắt họ làm thêm điều gì hơn những việc họ đã làm.

Nhưng, trên thực tế, họ không thể cứ để chiếc du thuyền ở đó mà đi. Ai biết được không có người giám sát thì nó sẽ trôi đi đâu? Tàu tuần tra từ Cơ quan An toàn Hàng hải sẽ rất khó khăn để xác định lại vị trí của chiếc du thuyền đó. Hiển nhiên là, cơ quan này đã yêu cầu tàu Wakashio VII ở nguyên đó và trông nom chiếc du thuyền cho đến khi tàu tuần tra đến.

Thuyền trưởng Takagi nghĩ một lát trước trả lời yêu cầu được diễn đạt một cách mềm mỏng của Cơ quan An toàn Hàng hải. Từ chối thì quá dễ rồi. Họ đâu có muốn nấn ná ở đây nữa. Nếu chẳng may mà cuối cùng họ lại bị kẹt ở đây vài ngày trong khi đã ở gần cảng quê nhà đến thế, thủy thủ đoàn có thể nổi loạn. Với tư cách một thuyền trưởng, mối quan tâm chủ yếu của Takagi là, một cách chính xác, làm sao để giữ sự bực tức và bất mãn của những người dưới quyền trong tầm kiểm soát.

Mặt khác, đã có tì vết trên danh tiếng của ông khi có hai người bị lốc cuốn bay khỏi tàu ngoài khơi New Zealand. Một người đã được cứu sống, nhưng người kia đã mất mạng. Đó đơn giản và thuần túy là một tai nạn, nhưng vị thuyền trưởng biết rằng Cơ quan An toàn Hàng hải sẽ tiến hành điều tra ngay khi họ trở về. Tình nguyện giúp đỡ cơ quan này trong tình huống hiện tại chắc chắn là một việc khôn ngoan; điều đó sẽ mua được một kiểu thiện chí mà sau này có thể sẽ hữu ích cho họ.

Thuyền trưởng Takagi thỏa hiệp. “Nếu chúng tôi kéo chiếc du thuyền một đoạn trên đường trở về thì sao?”

Thỏa hiệp này sẽ cho phép Wakashio VII tiếp tục cuộc hành trình về phía Bắc của nó, kéo theo chiếc du thuyền, trong lúc duy trì liên lạc với tàu tuần tra đi về phía Nam từ Shimoda. Hai tàu sẽ gặp nhau ở một điểm, tại đó tàu Wakashio VII có thể dỡ bỏ gánh nặng của mình. Kéo theo một chiếc du thuyền, họ sẽ buộc phải giảm vận tốc xuống còn chừng năm đến sáu hải lí, nhưng như thế vẫn còn tốt chán so với phải đứng yên một chỗ chờ tàu tuần tra đến.

Cơ quan An toàn Hàng hải chấp nhận đề xuất của thuyền trưởng Takagi, vậy là tàu Wakashio VII gánh trách nhiệm kéo theo du thuyền đó.

Ngay khi quyết định được thông qua, Kazuo liền khẩn khoản nói với thuyền trưởng, “Chẳng lẽ không nên có ai điều khiển chiếc du thuyền ấy sao, để đề phòng thôi?”

Tất nhiên sẽ rất có ích nếu có một thủy thủ trên du thuyền được kéo để xử lí các vấn đề ngoài dự kiến, điều chỉnh khi cần thiết, giả sử các trang thiết bị của du thuyền vẫn hoạt động bình thường. Như thế sẽ tránh hoàn toàn khỏi việc mỗi lần có vấn đề gì lại phải hạ một chiếc xuồng xuống.

“Anh thích nó, đúng không?” Takagi đi guốc trong bụng anh.

“Vâng, thưa truyền trưởng.”

“Thế thì đi đi.”

Thuyền trưởng đưa cho anh một máy bộ đàm, thiết bị này có thể hoạt động dễ dàng trong bán kính khoảng cách giữa tàu cá và du thuyền và dễ sử dụng hơn nhiều so với máy thu phát vô tuyến.

Quyết định cuối cùng là Kazuo sẽ điều khiển du thuyền một mình. Việc sao chẳng có ai thèm xung phong nữa khiến anh thật khó hiểu. Trừ những thủy thủ phải trực, chắc chắn phải có việc gì làm trên một con tàu đang trên những bước cuối cùng của cuộc hành trình về nhà. Thật thoải mái biết bao, anh tưởng tượng, khi ngủ trong cabin du thuyền, thay vì ngủ trên một cái giường tầng trong khoang chung với bốn người khác! Anh hình dung ra chính mình, chỉ mình mình thôi, nằm ườn ra trên cả một chiếc giường đôi.

Khi Kazuo lên chiếc du thuyền, Ueda, một thủy thủ giàu kinh nghiệm, đưa cho anh nước và đồ ăn. Tuổi trung bình của thủy thủ đoàn tàu cá này là ba mươi bảy, Kazuo là người trẻ nhất, mới hai mươi bảy, còn Ueda già nhất, đã năm mươi bảy. Kẻ từng sống sót qua bao nhiêu biến động ở biển cả ấy nhăn khuôn mặt vốn đã nhăn nhúm của mình thêm nữa và thì thầm, “Không phải ngày nào cũng thấy một con tàu ma đâu.”

Những lời này khiến Kazuo khựng lại. Con tàu ma… Đó là cách những thủy thủ khác cảm nhận về chiếc du thuyền sao?

Cuối cùng Kazuo cũng hiểu sao những thành viên khác lại nhìn anh với ánh mắt tò mò như thế. Điều đó lí giải sao không ai ngoài anh muốn lên du thuyền.; họ không coi nó là một du thuyền sang trọng mà là một thứ gớm guốc nào đó đến từ địa ngục.

Chỉ đến khi xuồng của Ueda bơi ra xa Kazuo mới cảm thấy những mối hồ nghi đầu tiên.

Thử nghĩ mà xem, chuyện gì đã xảy ra với những người trên du thuyền chứ?

… Bị cuốn khỏi tàu.

Kazuo giả định rằng họ đã rơi xuống biển vì một tai nạn. Có lẽ vài người đã bị một con sóng lớn chồm qua mạn cuốn xuống biển, và những người còn lại đã lao mình xuống biển trong nỗ lực tuyệt vọng cứu bạn mình. Vì xuồng cứu sinh vẫn ở nguyên vị trí và chẳng có dấu hiệu được sử dụng nên không thể có chuyện họ lấy nó ra để chạy trốn khỏi thảm họa nào đó trên du thuyền được. Kazuo có ấn tượng rằng các thủy thủ cùng tàu với anh cũng ít nhiều nghĩ như vậy; nhưng giờ, anh chợt nảy ra ý nghĩ rằng có lẽ chiếc du thuyền đã bị bỏ hoang vì một lí do nào đó khác. Suy nghĩ này khiến anh lạnh ớn, nhưng đã hơi quá muộn.

Xuồng của Ueda đã trở lại tàu mẹ an toàn, tàu Wakashio VII bắt đầu chầm chậm chuyển động, khiến sợi thừng kéo nối nó với du thuyền căng ra. Chiếc du thuyền sang trọng bắt đầu lướt đi trên mặt biển phẳng lặng. Trong cảm giác nuối tiếc, Kazuo đứng một lát trên boong và chằm chằm nhìn vào đuôi tàu Wakashio VII. Con tàu không bỏ rơi anh phía sau, nó chỉ cách anh chừng bốn mươi mét về phía trước. Sợi dây thừng được buộc vào cọc đầu dây. Nếu thấy cần hoặc thậm chí chỉ là thích tán chuyện, anh có thể dùng máy bộ đàm bất cứ lúc nào. Anh chẳng có gì mà phải lo lắng.

Vầng tà dương đang khuất dần phía sau đường chân trời phía Tây. Bằng cách nào đó, sắc đỏ rực của buổi chiều muộn đó dường như khiến nó khác hẳn mọi buổi hoàng hôn anh từng chứng kiến. Anh không thể diễn đạt được sự khác biệt đó bằng lời, nhưng anh nghĩ đến màu của máu.

Kazuo sẽ phải ở một mình suốt đêm trong cabin du thuyền. Nỗi náo nức đã rời xa, và hai cơn rùng mình chạy dọc cơ thể anh.