Nhà Karstark tới vào một buổi sáng lạnh lẽo đầy gió, mang theo ba trăm kỵ binh và gần hai ngàn bộ binh từ lâu đài của họ tại Karhold. Những mũi giáo thép lấp lánh trong ánh mặt trời nhàn nhạt khi đội quân tiến tới gần. Một người lính đi phía trước, đánh lên nhịp điệu hành quân bum, bum, bum trên một chiếc trống to hơn anh ta.
Bran ngồi công kênh trên vai anh Hodor, nheo mắt quan sát qua kính viễn vọng của Maester Luwin từ một tháp canh trên tường ngoài. Lãnh chúa Rickard thân chinh dẫn đầu đoàn quân, con trai ông Harrion, Eddard và Torrhen đi bên cạnh ông với lá cờ đen như màn đêm có thêu hình mặt trời phấp phới trên đầu. Già Nan nói họ mang dòng máu của Nhà Stark trong người, họ là một chi khác của nhà Stark cách đây hàng trăm năm, nhưng Bran không thấy họ giống người nhà Stark. Họ to lớn, dũng mãnh, râu ria xồm xoàm và tóc dài ngang vai. Áo choàng của họ làm từ da gấu, da hải cẩu và da sói.
Cậu biết họ là đạo quân cuối cùng. Những lãnh chúa khác đã tới đây cùng với đội quân của mình rồi. Bran muốn được đi giữa họ, muốn được thấy những gia tộc mùa đông cười đùa trong quảng trường mỗi sáng, được thấy đường phố bị lún hỏng dưới vó ngựa và bánh xe. Nhưng anh Robb cấm cậu rời lâu đài. “Chúng ta không còn ai để trông giữ em,” anh trai cậu đã giải thích như vậy.
“Em có Mùa Hè mà,” Bran cãi lại.
“Bran, đừng cư xử như một cậu bé với anh,” anh Robb nói. “Em biết nhiều hơn thế. Chỉ hai ngày trước một trong những người của Lãnh chúa Bolton đã đâm chết một người của Lãnh chúa Cerwyn tại Quán Mù Mịt. Mẹ sẽ lột da anh nếu anh dám để em gặp nguy hiểm.” Anh lại dùng giọng Robb Lãnh chúa và Bran biết anh sẽ không nhân nhượng.
Cậu biết anh nói thế vì chuyện đã xảy ra trong rừng sói. Ký ức đó vẫn khiến cậu mơ thấy ác mộng. Cậu vô dụng như một đứa bé, khả năng phòng vệ không hơn bé Rickon. Thậm chí còn không bằng... Rickon ít nhất có thể đá chúng. Cậu thật đáng xấu hổ. Cậu chỉ nhỏ hơn anh Robb vài tuổi; nếu anh trai cậu gần trưởng thành thì cậu cũng vậy. Cậu đáng ra phải tự bảo vệ được mình.
Chỉ một năm trước thôi, cậu có thể tự mình tới thị trấn dù có phải trèo qua tường. Ngày xưa cậu từng chạy trên những bậc thang, tự mình lên xuống ngựa và đấu kiếm đủ giỏi để đánh bại hoàng tử Tommen lăn lông lốc. Giờ cậu chỉ có thể quan sát qua ống kính viễn vọng của Maester Luwin. Học sĩ đã dạy cậu biết về những lá cờ: nắm đấm sắt nhà Glover mang màu bạc trên nền đỏ; con gấu đen của phu nhân Mormont; hình một người đàn ông bị lột da kinh tởm dẫn đầu đoàn quân của Roose Bolton thành Dreadfort; con nai sừng tấm to lớn nhà Hornwood; rìu chiến nhà Cerwyn; ba cây tùng nhà Tallhart và biểu tượng hình người khổng lồ bị xích đang gầm thét đáng sợ của nhà Umber.
Và trong một thời gian ngắn cậu đã có thể nhớ tất cả khuôn mặt các lãnh chúa cùng những người con trai và hiệp sĩ phục vụ họ dự tiệc tại Winterfell. Kể cả Đại Sảnh cũng không đủ chỗ cho tất cả bọn họ một lúc, vì thế anh Robb phải đón tiếp từng nhà một. Bran luôn được dành chỗ ngồi danh dự bên phải anh mình. Một vài tướng đồng minh nhìn cậu một cách kỳ quái, như thể họ đang tự hỏi vì sao một thẳng nhóc miệng còn hôi sữa lại được ngồi trên họ, và thẳng bé đó lại còn tàn tật nữa chứ.
“Giờ chúng ta có bao nhiêu người rồi ạ?” Bran hỏi Maester Luwin khi nhìn Lãnh chúa Karstark cùng những cậu con trai đi qua cổng.
“Mười hai ngàn người, hoặc xấp xỉ con số đó.”
“Trong đó có bao nhiêu hiệp sĩ ạ?”
“Cũng đủ,” vị học sĩ hơi thiếu kiên nhẫn. “Để trở thành một hiệp sĩ, con phải đứng cầu nguyện trong điện thờ, và được xức bảy thứ dầu thơm để thần thánh chứng giám cho lời thề của con. Ở phương bắc, chỉ có vài gia đình lớn theo Thất Diện Giáo. Những gia đình còn lại vẫn thờ các Cựu thần, và không hề phong tước hiệp sĩ... nhưng nếu so về sự dũng mãnh, lòng trung thành và tinh thần nghĩa hiệp, những lãnh chúa cùng con trai và những tay kiếm thề trung thành với họ không hề thua kém bất cứ một hiệp sĩ nào. Giá trị của một người đàn ông không được đánh dấu bởi chữ ser trước tên anh ta. Và ta đã nói với con điều đó cả trăm lần rồi mà?”
“Nhưng,” Bran nói, “chúng ta có bao nhiêu hiệp sĩ ạ?”
Maester Luwin thở dài. “Ba trăm, có lẽ là bốn trăm... trong số ba ngàn quân cầm giáo không phải hiệp sĩ.”
“Lãnh chúa Karstark là đội quân cuối cùng,” Bran suy tư nói. “Anh Robb sẽ khoản đãi ngài ấy vào tối nay.”
“Chắc chắn rồi.”
“Vậy bao lâu nữa... bao lâu nữa họ sẽ đi?”
“Một là ngài ta sẽ khởi hành sớm, hoặc là không bao giờ,” Maester Luwin nói. “Thị trấn mùa đông đã chật chội lắm rồi, và đội quân của ông ấy sẽ ăn sạch cả vùng nông thôn nếu như họ cắm trại ở đây quá lâu. Những người khác, những hiệp sĩ vùng đồi mộ và vùng đầm lầy cùng Lãnh chúa Manderly và Lãnh chúa Flint đang đợi tập họp quân cùng ông ta trên vương lộ. Trận chiến sẽ bắt đầu ở vùng châu thổ sông, và anh trai con còn phải đi hàng dặm.”
“Con biết.” Bran cảm thấy thật thảm hại. Cậu đưa cái ống nhòm bằng đồng cho ông học sĩ, và nhận ra tóc trên đỉnh đầu ông Luwin mỏng thế nào. Cậu thấy thật kỳ lạ khi nhìn ông theo kiểu này, trước đây cậu dành cả đời để ngước lên nhìn ông, nhưng khi ngồi trên lưng Hodor, cậu nhìn ai cũng phải từ trên xuống. “Con không muốn nhìn nữa. Anh Hodor, đưa em về lâu đài.”
Maester Luwin nhét cái ống nhòm vào ống tay áo. “Bran, giờ anh con không có thời gian gặp con. Anh ấy phải chào đón Lãnh chúa Karstark cùng những người con trai và khiến họ thấy ấm lòng.”
“Hodor” – Anh Hodor nói.
“Con không gây rắc rối cho anh Robb. Con muốn tới rừng thiêng thôi.” Cậu đặt tay lên vai anh Hodor. “Hodor.” Trên tường tháp bằng đá hoa cương, người ta đã đẽo một cầu thang. Anh Hodor kêu ư ử trong cổ họng khi đi xuống, Bran nảy lên trong chiếc gùi bằng liễu gai đặt trên lưng anh Hodor mà Maester Luwin làm cho. Ông Luwin đã lấy ý tưởng từ những chiếc giỏ địu củi khô trên lưng; sau đó ông chỉ cần cắt lỗ xỏ chân và gia cố thêm vài sợi dây da mới để Bran ngồi vững hơn. Tất nhiên ngồi trên lưng anh Hodor không thoải mái như ngồi trên lưng Vũ Công, nhưng có một số nơi Vũ Công không tới được và Bran thực sự xấu hổ khi anh Hodor cứ bế cậu trên tay như bế một đứa bé. Anh Hodor có vẻ thích cái gùi này, dù thực ra chuyện anh Hodor cảm thấy thế nào cũng khó nói lắm. Điều duy nhất gây rắc rối là những cánh cửa. Thi thoảng anh Hodor quên mất rằng anh đang cõng trên lưng, và khi đi qua cánh cửa sẽ khiến cậu đau vô cùng.
Trong gần hai tuần có quá nhiêu người đến và đi khiến anh Robb phải ra lệnh cho kéo khung lưới sắt lên và hạ Cầu treo xuống suốt ngày đêm. Đoàn người cầm giáo đang vượt qua hào nước thì Bran đi đến ngoài tháp; những người của ngài Karstark đi theo lãnh chúa của họ vào lâu đài. Họ đội mũ trụ nửa đầu bằng sắt đen, mặc áo choàng len đen mang họa tiết hình mặt trời. Anh Hodor đi giữa họ, ngô nghê cười với chính mình và nện gót giày lên ván gỗ cầu treo. Những kỵ binh nhìn họ một cách kỳ quái, và Bran nghe thấy có kẻ cười hô hố. Cậu cố không để điều đó làm ảnh hưởng tới cảm xúc của mình. “Mọi người sẽ nhìn con,” Maester Luwin đã cảnh báo cậu khi lần đầu tiên họ thắt những sợi dây da của chiếc gùi liễu gai quanh ngực Bran. “Họ sẽ nhìn, nói, và thậm chí một vài kẻ sẽ mỉa mai con.” Cử để họ mỉa mai đi, Bran nghĩ. Không ai mỉa mai cậu khi cậu ẩn náu trong phòng ngủ, nhưng cậu sẽ không sống cả đời trên giường đâu.
Khi đi dưới khung lưới sắt, Bran cho hai ngón tay vào miệng huýt sáo. Mùa Hè chạy trên sân. Đột nhiên những tay lính cầm giáo nhà Karstark cố lắm mới kiểm soát nổi những con ngựa đang đảo mắt và hí vang vì sợ. Một con ngựa vừa hí vừa l*иg lên khiến tay kỵ sĩ chửi thề và tuyệt vọng cố bám chặt lấy. Mùi của sói tuyết làm lũ ngựa nhà đứng im vì không quen, nhưng chúng cũng chỉ im lặng tới khi Mùa Hè đi qua mà thôi. “Rừng thiêng,” Bran nhắc anh Hodor.
Thành Winterfell cũng đã quá chật chội rồi. Trong sân vang lên tiếng kiếm và rìu, tiếng lọc cọc của những cỗ xe ngựa và tiếng chó sủa. Cửa kho vũ khí mở toang và Bran thoáng thấy chú Mikken với khuôn ngực trần lấm tấm mồ hôi, đang đứng trước bễ rèn nện búa chan chát. Bran chưa bao giờ thấy nhiều người lạ tới vậy trong ngần ấy năm cuộc đời, kế cả khi vua Robert tới thăm Cha.
Cậu cố không sợ khi anh Hodor chui qua cánh cửa thấp. Họ bước qua một hành lang dài hơi tối với Mùa Hè lười nhác đi cạnh. Con sói thi thoảng ngước đôi mắt phát sáng như vàng nung chảy lên. Bran muốn chạm vào nó, nhưng cậu đang ngồi quá cao không thể với tay xuống được.
Rừng thiêng là một hòn đảo yên bình trên biển Winterfell hỗn độn. Anh Hodor đi qua những cây sồi, thiết mộc, cây tùng tới hồ nước yên tĩnh bên cạnh cây mẹ. Anh dừng lại dưới cành cây khẳng khiu của cây đước và ngâm nga. Bran vươn tay lên và đẩy mình lên khỏi chỗ ngồi, rút hai chân ra khỏi hai lỗ khoét trên giỏ liễu gai. Cậu treo đu đưa ở đó một lúc, những chiếc lá đỏ đậm vuốt ve khuôn mặt cậu, cho tới khi anh Hodor nâng cậu lên và đặt cậu xuống tảng đá trơn láng bên cạnh hồ nước. “Em muốn ở một mình,” cậu nói. “Anh đi tắm đi. Tới hồ nước ấy.”
“Hodor.” Anh Hodor lao qua những rặng cây và biến mất. Bên kia rừng thiêng, dưới những ô cửa sổ của nhà khách có một dòng suối nóng đổ nước vào ba hồ nhỏ. Hơi nóng bốc lên từ mặt nước suốt ngày đêm và những bức tường trên đó mọc đầy rêu. Anh Hodor ghét nước lạnh, anh sẽ chiến đấu như một con mèo hoang nếu bị ai chà xà phòng lên người nhưng anh lại vô cùng hạnh phúc được ngâm mình trong bồn nước nóng nhất hàng giờ liền, rồi thích thú ợ lớn làm nổi những bong bóng nước trên mặt hồ xanh ngắt.
Mùa Hè bơi qua hồ rồi phủ phục bên Bran. Cậu gãi gãi cổ con sói, trong chốc lát cậu bé và con vật cùng cảm thấy yên bình. Bran luôn thích rừng thiêng, kể cả trước kia, nhưng gần đây càng lúc cậu càng hay lui tới nơi này. Kể cả cây mẹ cũng không khiến cậu sợ như trước nữa. Những đôi mắt đỏ sậm được khắc trên thân cây trắng vẫn quan sát cậu, nhưng không hiểu sao giờ cậu lại tìm thấy sự an ủi trong đôi mắt đó. Các vị thần đang quan sát cậu, cậu tự nhủ; họ là những cựu thần, những vị thần của nhà Stark và Tiền Nhân cùng những đứa con của rừng rậm, những vị thần của cha cậu. Cậu thấy an toàn trong tầm quan sát của họ và sự im lặng của rừng cây giúp cậu suy ngẫm. Bran đã nghĩ rất nhiều kể từ ngày bị ngã; nghĩ ngợi, mơ mộng và nói chuyện cùng thần linh.
“Xin người đừng mang anh Robb đi,” cậu thì thầm cầu nguyện. Cậu lướt tay trên mặt nước lạnh tạo nên những vòng sóng trên mặt hồ. “Hãy cho anh ấy ở lại đi ạ. Hoặc nếu anh ấy phải đi, xin người hãy cho anh ấy về nhà an toàn, cùng cha mẹ và các chị. Và hãy giúp... giúp Rickon hiểu.”
Em trai cậu đã trở nên bất trị như cơn bão mùa đông kể từ khi biết anh Robb sẽ đi chinh chiến, bé cứ hết khóc rồi lại giận. Bé không chịu ăn, cứ khóc và gào thét gần như suốt đêm, thậm chí đấm cả Già Nan khi bà cố hát ru bé ngủ và sáng hôm sau bé biến mất. Anh Robb đã cho một nửa lâu đài đi tìm bé, và cuối cùng khi họ thấy Rickon trong hầm mộ, bé đã dùng thanh kiếm sắt han gỉ từ tay vị tiên vương mà chém họ, còn Lông Xù bước ra khỏi bóng tối miệng chảy dãi như một con quỷ mắt xanh. Con sói gần bất trị bằng Rickon; nó ngoạm tay anh Gage và táp mất một miếng thịt đùi chú Mikken. Phải tới lúc anh Robb và Gió Xám tới, hai đứa mới bình tĩnh lại được. Chú Farlen đã xích con sói đen trong chuồng chó và bé Rickon càng khóc nhiều hơn khi không có con sói bên cạnh.
Maester Luwin đã khuyên anh Robb ở lại Winterfell, Bran cũng cầu xin anh hãy ở lại vì cậu và cũng vì bé Rickon, nhưng anh ương bướng lắc đầu. “Không phải anh muốn đi. Anh phải đi.”
Một nửa trong câu nói đó là nói dối. Bran hiểu phải có người đi để trấn thủ Neck và giúp quân Tully chống lại quân Lannister, nhưng không nhất thiết phải là anh Robb. Anh cậu có thể ra lệnh cho anh Hal Mollen, anh Theon Greyjoy, hoặc bẩt cứ ai trong số các tướng đồng minh. Maester Luwin cũng khuyên anh làm vậy, nhưng anh Robb không nghe. “Cha cháu không bao giờ phái người đi chết thay mình trong khi chui rúc như một kẻ hèn đằng sau những bức tường thành Winterfell,” anh nói, đúng theo giọng Robb Lãnh chúa.
Giờ với Bran anh Robb khá giống một người xa lạ, một lãnh chúa thực sự dù anh chưa đến tuổi mười sáu. Thậm chí những tướng đồng minh của cha họ cũng cảm nhận được điều đó. Rất nhiều người đã thử anh theo nhiều cách của riêng họ. Cả ngài Roose Bolton và Robett Glover đều xin được vinh dự chỉ huy quân đội, người đầu tiên rất quyết liệt, còn người thứ hai thì vừa cười vừa bông đùa. Phu nhân Maege Mormont đậm người tóc muối tiêu, mặc giáp giống một người đàn ông, đã lập lờ nói với anh Robb rằng anh bằng tuổi cháu bà, và anh không có quyền chỉ huy bà... nhưng bà có một cô cháu gái muốn gả cho anh. Lãnh chúa Cerwyn thực sự đã mang cô con gái theo cùng - một cô thiếu nữ mười ba tuổi béo bệu, thô kệch luôn ngồi bên trái cha và không bao giờ ngẩng mặt khỏi đĩa ăn. Jovial Lãnh chúa thành Hormvood không có con gái, nhưng ông ta đã mang theo những món quà, lúc thì là một con ngựa, đùi thú rừng, hoặc tù và đi săn nạm bạc và ông ta không đòi hỏi gì... trừ một lâu đài từ tay ông nội, quyền săn bắn tại phía bắc một gò đất nhất định, và được dựng đập nước ở Bạch Đao, nếu anh Robb đồng ý.
Anh Robb đối đáp với từng người gần bằng Cha và anh luôn có cách bắt họ phục tùng mình.
Khi Lãnh chúa Umber, vẫn được binh lính của mình gọi là Greatjon, người cao lớn như anh Hodor nhưng to gấp đôi, dọa sẽ đưa quân đội về nhà nếu ông ta phải đi sau nhà Horwood hay Cerwyn, anh Robb nói ngài cứ việc làm theo ý mình đi. “Và khi chúng ta xong việc với nhà Lannister,” anh hứa hẹn trong khi gãi tai Gió Xám, “chúng ta sẽ trở về phương bắc rồi lôi ngài ra khỏi lâu đài và treo cổ ngài vì tội bất tuân quân lệnh.” Greatjon chửi thề và ném hũ rượu vào đống lửa rồi rống lên rằng anh Robb còn non và xanh mà ông ta lại đang muốn tè vào cỏ. Khi anh Hallis Mollen tới giữ ông ta, ông ta đánh ngã anh xuống đất, đá bay một cái bàn và rút ra thanh đại đao lớn nhất và xấu xí nhất mà Bran từng thấy. Trên các băng ghế, những người con trai, anh em và những tay kiếm trung thành đứng dậy, tay cầm chắc thanh kiếm.
Nhưng Robb chỉ nói một từ duy nhất, và trong chớp mắt Lãnh chúa Umber đã nằm ngửa trên đất, lưỡi kiếm văng xa cả mét, rồi từ chỗ hai ngón tay bị Gió Xám cắn đứt, máu xối ra ào ạt. “Cha đã dạy ta rằng chĩa kiểm vào tướng đồng minh đồng nghĩa với cái chết,” anh Robb nói, “nhưng chắc ngài chỉ định giúp ta cắt thịt thôi.” Bran yên tâm hơn khi Greatjon loạng choạng đứng dậy, mυ"ŧ hai đốt tay... nhưng kinh ngạc là, sau đó người đàn ông to lớn đó cười lớn. “Thịt của ngài,” ông ta gầm lên, “dai đến chảy máu đấy.”
Và không hiểu sao từ sau đó Greatjon trở thành cánh tay phải của Robb, là người bảo vệ trung thành nhất và chính ông ta đã tuyên bố rằng chàng lãnh chúa trẻ tuổi này đúng là một người nhà Stark thật sự, và tốt hơn hết họ nên quỳ gối nếu họ không muốn bị làm thịt.
Nhưng vào tối hôm đó, anh đã tới phòng ngủ của Bran trong tình trạng mặt trắng bệch và run rẩy, sau khi lửa trong Đại Sảnh đã gần tàn. “Anh nghĩ rằng ông ấy định gϊếŧ anh,” Robb thừa nhận. “Em có thấy cách ông ta quăng Hal cứ như thể anh ấy không lớn hơn Rickon là mấy không? Thánh thần ơi, anh rất sợ. Mà Greatjon không phải người đáng sợ nhất, chỉ là người to mồm nhất thôi. Lãnh chúa Roose không bao giờ nói một lời, ông ấy chỉ nhìn anh, và tất cả những gì anh có thể nghĩ đến là căn phòng ở thành Dreadfort nơi nhà Bolton phơi da kẻ địch.”
“Đó chỉ là một trong những câu chuyện của Già Nan thôi mà anh,” Bran nói. Trong giọng cậu có chút nghi ngờ. “Đúng không nhỉ?”
“Anh không biết nữa.” Anh mệt mỏi lắc đầu. “Lãnh chúa Cerwyn muốn đưa cô con gái xuống phương nam cùng chúng ta. Ông ấy nói là để nấu cơm cho ông ấy. Theon đảm bảo rằng rồi sẽ có ngày cô nàng bò lên giường anh. Anh ước gì... anh ước gì cha ở đây...”
Đó là điều duy nhất mà họ, Bran, Rickon và anh Robb Lãnh Chúa có chung quan điểm; họ đều mong cha ở đây. Nhưng Lãnh chúa Eddard đang ở cách đây cả ngàn dặm, bị nhốt trong một ngục thất nào đó, và sau này cha sẽ phải chạy trốn suốt đời hoặc thậm chí phải chết. Không ai biết chắc được; mỗi khách qua đường lại kể một cầu chuyện khác nhau, câu chuyện sau đáng sợ hơn câu chuyện trước. Đầu những người lính hộ vệ của Cha bị cắm trên những ngọn giáo, đang thối rữa trên tường Tháp Đỏ. Vua Robert chết trên tay cha. Nhà Baratheon đã đặt hàng phòng thủ quanh Vương Đô. Lãnh chúa Eddard đã chạy trốn xuống phía nam cùng người em Renly xấu xa của nhà vua. Arya và Sansa đã bị Chó Săn gϊếŧ chết. Mẹ đã gϊếŧ chết Tyrion Quỷ Lùn và treo xác hẳn ta trên tường thành Riverrun. Lãnh chúa Tywin Lannister đang hành quân tới thành Eyrie, đi tới đâu đốt nhà gϊếŧ người tới đó. Một gã kể chuyện say xỉn thậm chí còn tuyên bố rằng Rhaegar Targaryen đã sống dậy và điều khiển một đội quân những anh hùng thời xa xưa trên đảo Dragonstone để giành lại ngai vàng của cha.
Khi con quạ tới mang theo lá thư có dấu niêm phong của Cha và nét chữ của Sansa, họ không thấy nhẹ lòng đi chút nào. Bran sẽ không bao giờ quên nét mặt Robb khi nhìn nét chữ của cô em gái. “Em ấy nói rằng cha âm mưu làm phản cùng những người em của nhà vua,” anh đọc. “Vua Robert đã băng hà và mẹ cùng anh được triệu hồi tới Tháp Đỏ để thề trung thành với Joffrey. Em ấy nói chúng ta phải tỏ lòng trung thành. Và khi em ấy kết hôn cùng Joffrey em ấy sẽ cầu xin hắn tha mạng cho cha chúng ta.” Anh nắm chặt tay rồi vò nát lá thư của Sansa. “Và em ấy không hề nói gì tới Arya, không một chữ nào. Quỷ tha ma bắt con bé đi! Nó bị làm sao thế?”
Bran thấy lạnh người. “Chị ấy đã mất con sói,” cậu khẽ nói khi nhớ lại ngày bốn người lính gác của cha mang xương Quý Cô từ phương nam xuống. Mùa Hè, Gió Xám và Lông Xù bắt đầu tru lên một cách thê lương và buồn thảm khi họ đi qua cầu. Bên dưới bóng Đại Vọng Lâu là một nghĩa địa cổ với những bia đá đánh dấu ngôi mộ đá trắng, nơi các vị Vua Mùa Đông xa xưa đã chôn cất những người hầu cận trung thành. Đó là nơi họ chôn Quý Cô, trong khi những chú sói anh em của cô nàng lượn lờ giữa các nấm mồ như bóng ma oan khuất. Cô nàng đi xuống phương nam, nhưng chỉ có nắm xương tàn trở lại nơi này.
Ông nội họ, Lãnh chúa Rickard cũng đã từng xuống phương nam cùng bác Brandon - anh trai cha họ, cùng hai trăm lính tinh nhuệ nhất. Nhưng không một ai trở về. Và cha cũng đã xuống phương nam cùng Arya, chị Sansa, chú Jory, chú Hullen, bác Tom Bự và nhiều người khác, sau đó mẹ với Ser Rodrik cũng ra đi nhưng chẳng ai trở lại. Và giờ anh Robb cũng định đi. Không phải tới Vương Đô để thề trung thành, mà tới Riverrun cùng với thanh kiếm trên tay. Và nếu cha họ thực sự trở thành tù binh, điều đó có nghĩa là ông đã cầm chắc cái chết. Ý nghĩ đó khiến Bran sợ không thể diễn tả thành lời.
“Nếu anh Robb phải ra đi, mong các ngài hãy bảo vệ anh ấy,” Bran cầu xin các cựu thằn, khi họ quan sát cậu qua đôi mắt đỏ của cây mẹ, “và xin người hãy đoái thương tới những người lính của anh, tới anh Hal, anh Quent cùng những người khác, hãy bảo vệ Lãnh chúa Umber, phu nhân Mormont cùng những lãnh chúa khác nữa ạ. Và có lẽ, là cả anh Theon nữa. Hãy quan sát và che chở cho họ, nếu ngài đồng ý, thưa các vị thần linh. Hãy giúp họ đánh bại nhà Lannister, cứu lấy Cha con và mang họ trở về nhà ạ.”
Một cơn gió nhẹ thoảng qua khu rừng thiêng và những chiếc lá cây rung động xào xạc. Mùa Hè nhe răng.
“Cậu có nghe thấy họ nói gì không?”
Bran ngẩng đầu. Osha đứng ở bên kia hồ, dưới cây sồi cổ thụ, khuôn mặt ẩn khuất trong tán lá. Dù đeo xích sắt nhưng ả du mục này di chuyển nhẹ như mèo. Mùa Hè đi quanh hồ và đánh hơi ả ta. Người đàn bà cao lớn khẽ giật mình.
“Mùa Hè, tới đây nào,” Bran gọi. Con sói tuyết đánh hơi lần cuối rồi quay lưng chạy lại. Bran ôm lấy nó. “Cô đang làm gì ở đây?” Cậu đã không gặp Osha kể từ ngày họ bắt ả tại rừng sói dù cậu biết ả làm việc trong bếp.
“Họ cũng là các vị thần của tôi,” Osha nói. “Bên ngoài lường Thành, họ là những vị thần duy nhất.” Tóc ả ta đã dài ra mang màu nâu xơ xác. Chính mái tóc cùng bộ váy vải thô đơn sơ mà người ta đưa cho ả sau khi tước áo giáp và áo da đi đã khiên ả trông giống phụ nữ hơn. “Gage thi thoảng cho tôi cầu nguyện khi tôi thấy cần, và tôi để hắn làm bất cứ thứ gì dưới váy tôi khi hắn cảm thấy cần. Với tôi chuyện đó chẳng là gì. Tôi thích mùi bột mì trên tay hắn mà hẳn lại nhẹ nhàng hơn Stive.” Ả ngượng ngùng cúi đầu. “Tôi sẽ để cậu lại. Tôi cần cọ rửa mấy cái bô.”
“Không, ở lại đi,” Bran ra lệnh. “Nói cho tôi nghe cô định nói gì, về việc nghe lời thần thánh ấy.”
Osha nhìn cậu. “Cậu hỏi họ và họ trả lời. Hãy mở rộng đôi tai và lắng nghe, rồi cậu sẽ nghe thấy.”
Bran lắng nghe. “Chỉ có tiếng gió thôi.” Rồi cậu nói, nhưng chính cậu cũng không chắc. “Chỉ là lá cây xào xạc thôi.”
“Vậy cậu nghĩ ngoài các vị thần ra thì còn ai gửi những cơn gió đó tới?” Ả ngồi đối diện bên kia hồ, khi cử động ả phát ra tiếng lanh canh khe khẽ. Chú Mikken rèn chiếc còng sắt đeo quanh cổ chân ả với một sợi xích to nặng nối hai cái cùm lại; ả có thể bước đi nếu bước từng bước nhỏ, nhưng ả không thể chạy, leo trèo hay lên lưng ngựa. “Họ thấy cậu. Họ nghe tiếng cậu nói. Tiếng xì xào đó là lời trả lời của họ đấy.”
“Họ nói gì vậy?”
“Họ buồn. Họ không thể giúp anh trai cậu ở nơi anh cậu sẽ đến. Các cựu thần không có sức mạnh ở phương nam. Từ cách đây hàng ngàn năm dân phương nam đã chặt hết cây đước rồi. Làm sao họ có thể theo dõi anh cậu khi họ không có mắt?”
Bran không nghĩ tới điều đó. Cậu thấy sợ. Nếu các vị thần không thể giúp anh cậu, vậy cậu còn hy vọng gì nữa đây? Có lẽ Osha đã nghe nhầm. Cậu nghiêng đầu nghe ngóng lại. Cậu nghĩ cậu có thể nghe thấy nỗi buồn trong tiếng gió nhưng chỉ thế mà thôi.
Tiếng xì xào lớn hơn. Bran nghe thấy tiếng chân lép nhép và tiếng ư ử khe khẽ, rồi anh Hodor xuất hiện khỏi trảng cây trong tình trạng trần như nhộng và cười toe toét. “Hodor!”
“Chắc hẳn anh ấy nghe thấy giọng chúng ta,” Bran nói. “Anh Hodor, anh quên mặc quần áo kìa.”
“Hodor,” anh Hodor đồng tình. Anh ướt từ cổ xuống, và bốc hơi nóng trong không khí lạnh buốt. Cơ thể anh được bao phủ bởi lớp lông nâu còn da dày như da thú. Giữa hai chân anh, dươиɠ ѵậŧ dài và lớn đang lủng lẳng.
Osha nhìn anh với nụ cười chua xót. “Ồ một người to lớn đây,” ả nói. “Nếu trong người anh ta không có dòng máu người khổng lồ thì chắc tôi là nữ hoàng mất.”
“Maester Luwin nói rằng không còn người khổng lồ nữa. Ông ấy bảo tất cả đều đã chết rồi, cũng như những đứa con của rừng rậm vậy. Tất cả những gì còn lại của họ là nắm xương tàn trong lòng đất mà thi thoảng người ta lại cày phải.”
“Vậy cho Maester Luwin ra ngoài Tường Thành đi,” Osha nói. “Ông ấy sẽ tìm thấy người khổng lồ hoặc họ sẽ tìm thấy ông ta. Anh tôi đã gϊếŧ chết một người rồi. Cô ả cao mười foot, mà như thế là còn là còi đó. Họ cũng là những sinh vật dũng mãnh, trên người họ toàn răng với tóc, vợ cũng có râu như chồng,và khó mà biết ai là nam ai là nữ lắm. Những người phụ nữ thường bắt đàn ông loài người làʍ t̠ìиɦ nhân và sinh ra những đứa con lai. Nhưng chuyện đó khó xảy ra với phụ nữ loài người hơn. Giống đực loài đó quá lớn nên họ sẽ xé toạc cơ thể người phụ nữ trước khi kịp để một đứa trẻ vào bụng cô ấy.” Ả cười toe toét với cậu. “Nhưng cậu không hiểu tôi muốn nói gì, đúng không cậu bé?”
“Có, tôi hiểu,” Bran khẳng định. Cậu hiểu làʍ t̠ìиɦ là thế nào; cậu đã nhìn lũ chó trên sân, và quan sát ngựa đực cưỡi lên lưng ngựa cái. Nhưng nói về vấn đề này làm cậu không thoải mái. Cậu nhìn anh Hodor. “Trở về và mang quần áo anh lại đây đi anh Hodor,” cậu nói. “Đi mặc quần áo đi.”
“Hodor.” Anh trở lại đường cũ và chui qua những nhánh cây thấp.
Anh ta to lớn kinh khủng, Bran nghĩ khi nhìn anh ta đi. “Có thực là có người khổng lồ bên ngoài Tường Thành không?” cậu bối rối hỏi Osha.
“Người khổng lồ và những giống nòi khác kinh khủng hơn người khổng lồ nữa, công tử ạ. Tôi đã cố nói với anh cậu, vị học sĩ nhà cậu và chàng thiếu niên Greyjoy miệng luôn nhăn nhở nữa. Những con gió lạnh đang nổi lên, có những người rời khỏi bếp lửa và không bao giờ trở lại... hoặc nếu có về, họ cũng không còn là người nữa mà chỉ còn là những cái xác với đôi mắt xanh biếc và đôi bàn tay đen lạnh giá. Cậu nghĩ lý do gì mà tôi lại chạy xuống phương nam cùng Stiv, Hali và những kẻ ngốc khác chứ? Mance nghĩ rằng ngài ấy sẽ chiến đấu, đúng là một người đàn ông tốt bụng, dũng cảm và ương ngạnh, ông ấy thực sự nghĩ rằng những bóng trắng đó cũng chỉ như lính biệt kích sao, nhưng ngài ấy biết gì nào? Ngài tự gọi mình là Vua ngoài Tường Thành, nhưng ngài chỉ là một con quạ già bay xuống từ Tháp Đêm thôi. Ngài ấy chưa từng nếm trải mùi vị của mùa đông. Cậu bé à, tôi được sinh ra tại Free Folk, giống như mẹ tôi và bà ngoại tôi. Chúng tôi nhớ hết.” Osha đứng dậy, những sợi xích kêu rổn rảng. “Tôi đã cố cảnh báo cho lãnh chúa anh cậu. Chỉ ngày hôm qua thôi, khi tôi thấy anh ta ở sân. ‘Thưa lãnh chúa Stark,’ tôi đã vô cùng kính cẩn gọi anh ta, nhưng anh ta nhìn qua tôi và gã đần độn người nhớp nháp mồ hôi Greatjon Umber xô tôi sang một bên. Thế là xong. Tôi sẽ đeo xích và im mồm thôi. Người nào không biết lắng nghe sẽ chẳng nghe thấy gì.”
“Nói cho tôi nghe đi. Robb sẽ nghe tôi, tôi biết anh ấy sẽ nghe.”
“Thật sao? Chúng ta sẽ đợi xem. Công tử hãy nói với anh ta thế này. Cậu hãy nói cho anh ta rẳng anh ta đang hành quân nhầm đường rồi. Anh ta phải lên phương bắc. Phương bắc ấy, chứ không phải phương nam. Cậu nghe tôi nói không?”
Bran gật đầu. “Tôi sẽ nói.”
Nhưng đêm đó, khi họ khoản đãi tiệc tại Đại Sảnh, anh Robb không ở cùng họ. Thay vào đó anh ăn trong thư phòng cùng Lãnh chúa Rickard, Greatjon và những tướng đồng minh khác để hoàn thành kế hoạch cho chuyến hành quân dài ngày sắp tới. Bran phải ngồi ở vị trí đầu bàn, để khoản đãi những người con trai của Lãnh chúa Karstark và những người bạn danh dự. Họ đã vào chỗ khi anh Hodor cõng Bran vào sảnh và quỳ gồi bên cạnh ghế cao. Hai trong số những người hầu giúp cậu ra khỏi giỏ. Bran có thể cảm nhận ánh mắt của mọi kẻ lạ trong sảnh. Tất cả chìm trong im lặng. “Thưa các lãnh chúa,” anh Hallis Mollen tuyên bố, “Đây là Brandon Stark của thành Winterfell.”
“Ta mời các ngài tới bên bếp lửa,” Bran ngượng nghịu nói, “mời các ngài dùng bữa và uống rượu để vinh danh tình bạn của chúng ta.”
Harrion Karstark, người con trai cả của Lãnh chúa Rickard cúi đầu chào và những người em trai làm theo, nhưng qua tiếng chén dĩa lanh canh cậu nghe thấy hai người trẻ hơn đang thì thầm nói chuyện khi ngồi xuống... “Thà chết còn hơn sống như thế,” người con trai được đặt tên theo tên cha Eddard nói, và người em trai Torrehen nói như thể cậu bé què quặt không chỉ ở thể chất mà còn ở tâm hồn, và chỉ là một kẻ hèn nhát cố bám víu lấy sự sống.
Què quặt, Bran cay đẳng nghĩ và nắm chặt lấy con dao. Không phải cậu đang như thế sao? Bran Què Quặt ư? “Con không muốn bị què,” cậu giận dữ thì thầm với Maester Luwin đang ngồi bên phải. “Con muốn làm hiệp sĩ.”
“Có vài người cho rằng hội học sĩ là hiệp sĩ tinh thần,” Luwin trả lời. “Bran, con là một cậu bé thông minh. Con đã bao giờ nghĩ tới việc đeo sợi xích của học sĩ chưa? Ở đó không có giới hạn về khả năng học hỏi của con.”
“Con muốn học phép thuật” Bran nói. “Con quạ đã hứa rằng con có thể bay.”
Maester Luwin thở dài. “Ta có thể dạy con về lịch sử, y thuật và những kiến thức về thảo dược. Ta có thể dạy cho con về ngôn ngữ của loài quạ và cách xây lâu đài, và cách thủy thủ định hướng tàu theo các vì sao. Ta có thể dạy con ước tính ngày và đánh dấu mùa, và ở Citadel trong 01dtown họ sẽ dạy con biết hàng ngàn thứ khác. Nhưng, Bran à, không ai có thể dạy phép thuật cho con.”
“Những đứa con của rừng rậm có thể,” Bran nói. Điều đó làm cậu nhớ tới điều cậu đã hứa với Osha trong rừng thiêng, và thế là cậu nói với ông Luwin về điều ả ta đã nói.
Vị học sĩ lịch sự lắng nghe. “Ả du mục đó có thể dạy cho Già Nan kể chuyện đấy,” ông nói khi Bran đã nói xong. “Ta sẽ nói chuyện với ả lần nữa nếu con thích, nhưng tốt hơn hết con đừng làm phiền anh trai con vì câu chuyện ngu ngốc này. Anh ấy đã có đủ thứ để lo lắng hơn là về những người khổng lồ và lũ thây ma trong rừng rậm rồi. Bran ạ, giờ nhà Lannister đang giữ cha con, chứ không phải những đứa con của rùng rậm đang giữ cha con.” Ông nhẹ nhàng đặt tay lên cánh tay Bran. “Con trai, hãy nghĩ tới điều ta vừa nói.”
Và hai ngày sau, khi bình minh đỏ ối bắt đầu một ngày lộng gió, Bran được buộc lên lưng Vũ Công đứng dưới cổng thành chào tạm biệt anh trai.
“Giờ em là lãnh chúa thành Winterfell,” Robb nói với cậu. Anh đang ngồi trên lưng con ngựa chiến xám, với tấm khiên gỗ viền sắt mang màu trắng và xám có trang trí khuôn mặt dữ tợn của sói tuyết bên ngựa. Anh mặc áo giáp xích bên ngoài áo da được tẩy trắng, với kiếm và dao găm giắt ở thắt lưng, áo choàng cổ lông khoác trên vai. “Em phải ngồi lên vị trí này giống như anh đã làm thay Cha cho tới khi chúng ta về nhà.”
“Em biết,” Bran buồn bã trả lời. Cậu chưa bao giờ cảm thấy nhỏ bé, cô đơn và sợ hãi như lúc này. Cậu không biết cách làm một lãnh chúa.
“Hãy lắng nghe lòi khuyên của Maester Luwin và chăm sóc bé Rickon. Nói với nó là anh sẽ trở về ngay sau trận chiến.”
Bé Rickon không chịu xuống. Bé vẫn ở trên phòng quậy phá và la hét. “Không!” bé đã hét lên khi Bran hỏi bé có muốn xuống tạm biệt anh Robb không. “KHÔNG tạm biệt!”
“Em đã nói với nó,” Bran nói. “Nó nói chẳng có ai trở về cả.
“Nó không thể là một đứa nhỏ mãi được. Nó là một đứa bé nhà Stark và đã gần bốn tuổi rồi.” Anh Robb thở dài. “Nhưng Mẹ sẽ sớm về thôi. Và anh hứa sẽ mang cha trở về.”
Anh quay ngựa phi nước kiệu. Gió Xám uyển chuyển và nhanh nhẹn chạy sát bên con ngựa chiến. Anh Hallis Mollen đi theo họ qua cổng, mang theo lá cờ trắng của nhà Stark trên cây gậy xám cao. Anh Theon Greyjoy và Greatjon đi hai bên anh Robb, còn những hiệp sĩ đi hai hàng sau họ với những mũi thương thép lấp lóa dưới ánh mặt tròi.
Cậu khó chịu khi nhớ lại lời nói của Osha. Cậu nghĩ, anh đã đi sai đường rồi. Và đột nhiên cậu muốn phi nước đại đuổi theo cảnh báo anh nhưng khi Robb biến mất dưới khung lưới sắt thì cậu lại thôi.
Bên ngoài tường lâu đài, những âm thanh vỡ òa ra. Bran biết những bộ binh và dần làng đang hò reo chào mừng anh Robb - chào đón Lãnh chúa Stark, lãnh chúa thành Winterfell trên lưng con ngựa chiến lớn mặc áo choàng phấp phới với Gió Xám bên cạnh. Tự nhiên cậu thấy nhói đau khi biết họ sẽ không bao giờ chào đón cậu như vậy. Cậu có thể là lãnh chúa thành Winterfell trong thời gian anh trai và cha đi vắng, nhưng cậu sẽ mãi là Bran Què Quặt. Cậu sẽ không bao giờ tự xuống ngựa nổi, trừ khi là ngã xuống.
Khi những tiếng reo đằng xa dần chìm vào im lặng và sân đã vắng người, Winterfell dường như bị bỏ hoang và chìm vào chết chóc. Bran nhìn khuôn mặt những người ở lại, những người đàn bà, trẻ con, ông lão... và Hodor. Trên gương mặt cậu thiếu niên coi chuồng ngựa to lớn kia hằn lên vẻ mất mát và sợ hãi. “Hodor?” anh buồn bã nói.
“Hodor,” Bran đồng tình và tự hỏi từ đó có nghĩa gì.