Đức đã trải qua một ngày Chủ Nhật yên bình. Khi thức dậy vào buổi sáng, anh cảm thấy cơ thể có hơi đau nhức, bèn nhủ thầm chắc là do cú ngã ngày hôm qua, tới hôm nay cái đau mới bắt đầu “thấm”. Anh rời khỏi giường vào lúc sáu giờ sáng và sáu giờ ba mươi đã dắt xe ra khỏi nhà. Cũng vì khu nhà nơi anh ở có hơi “biệt lập” với phố thị nên mỗi khi muốn mua cái gì thì phải chạy ra chợ cách đó hơn mười phút. Lúc đi ngang nơi xảy ra tai nạn hôm qua thì anh thấy đống đất đá đã được dọn sạch, cái hố đã được trám bởi một lớp nhựa đường đen bóng. Anh mỉm cười, nghĩ rằng người kia cũng biết giữ lời lắm.
Bảy giờ ba mươi, anh về tới nhà cùng bốn phần thức ăn sáng (gồm một bún mộc, một hủ tiếu Mỹ Tho, một mì hoành thánh và một bún bò Huế), vài bó rau, vài lạng thịt cá các loại. Chín giờ, anh cùng gia đình đi Lễ. Một giờ trưa, họ về lại căn nhà thân thuộc. Hai giờ ba mươi lăm, anh tỉnh dậy sau một giấc ngủ trưa ngắn và ngồi vào bàn, mở máy tính lên.
Do vẫn còn “ngái ngủ” nên anh không muốn đọc báo cáo hay thông tin tài chính nào cả, sợ rằng nếu đọc rồi mà ngủ gục luôn thì không ổn. Thế là anh chuyển qua đọc tin tức, nhưng rồi lại thấy chán vì tin tức chả có gì nổi bật, quanh đi quẩn lại vẫn là mấy vụ lùm xùm tình ái của đám quan chức, đám nghệ sĩ; còn không thì là kiểu bài viết mang đầy tính thù ghét nhằm vào đám người siêu năng lực.
Anh nhớ lại chuyện hôm qua, nhớ những lời Khang nói, những lời ngài Kim đã nói. Thật lạ khi anh có cảm giác rằng ngài Kim cũng là một trong số “những người đó”. Có thể không nhể? Thế tại sao ngài Kim lại đối xử tốt với hai người họ trong khi những nhân viên khác (và thậm chí cả anh) đều xa lánh họ chỉ vì họ mang “Căn bệnh HSP”? Vì ngài Kim là người Mỹ nên đầu óc của ông ta cởi mở hơn? Không hề vì trong suốt hai tháng làm việc chung, anh nhận thấy ngài Kim là một người có đầu óc hơi bảo thủ. Có thể ông ta làm một nhà đàm phán giỏi nhưng phương pháp làm việc thì…cổ hủ quá, cứ khăng khăng cho ý kiến của mình là đúng. Và nếu có ai đó nêu ý kiến khác thì ông ta vẫn có cách “hướng” lời nói của người đó theo ý mình.
Đã lỡ nghĩ về đám người siêu năng lực thì anh không thể không nghĩ tới người đàn ông kì lạ mình gặp hôm qua. Tên anh ta là…Dương, chỉ thế thôi. Anh ta nói mình mang chức vụ “Giám Chế” trong một tổ chức có tên là Hội Tiến Bộ.
Hội…Tiến…Bộ, sau vài giây thì Google đã cho ra hàng triệu kết quả có liên quan, nhưng lại không có kết quả nào thực sự giải thích về hội này hoặc những hoạt động, thành tích của họ. Đức kiên nhẫn tìm tới trang thứ mười một của kết quả thì bỏ cuộc vì mớ kết quả này quanh đi quẩn lại toàn những thứ chẳng ra gì. Mệt mỏi và có chút buồn ngủ, anh bắt đầu xóa kết quả tìm kiếm. Khi con trỏ còn nằm phía sau chữ “T” trong từ Hội T…thì lại hiện ra một vài kết quả mà trong đó có một cái khiến anh thấy hứng thú:
Hội Thánh Đức Bà Thượng Cổ.
Anh bật cười nhấn vào cụm từ và nhanh chóng bị choáng ngợp trước hàng loạt bài báo với những tựa đề giật gân kèm những từ ngữ thường thấy như: “thâm nhập”, “xâm nhập”, “gieo rắc”, “chiêu trò”, “lừa đảo”, “tinh vi”, “tà đạo”,… Những cụm từ này đã khiến anh càng tò mò hơn và anh liền bắt đầu tìm hiểu về nguồn gốc của Hội Thánh này. Theo một bài báo đăng trên trang Soha thì:
Hội Thánh Đức Bà Thượng Cổ” được thành lập vào ngày 10 tháng 7 năm 1963 tại số 771 đường Bleecker, thành phố New York, Hoa Kì bởi Richard Scottson, mà theo như các báo cáo, là một “Nghệ sĩ nổi tiếng với các tác phẩm về ma quỷ."
Giáo phái của Richard tôn thờ một “Đấng thần linh cổ xưa” có nguồn gốc từ nền văn minh từng tồn tại dưới dãy Hy Mã Lạp Sơn. Richard cho rằng “Đức Bà” chính là mẹ của Phật Thích Ca, và sau này cũng chính là mẹ Maria, là “Tiên nữ vùng hồ” (Lady of the Lake trong truyền thuyết vua Arthur), và nhiều hóa thân thần nữ trong các truyền thuyết khác.
Khi giáo phái được du nhập vào Việt Nam năm 1994, người giáo phái còn đánh đồng thêm “Bà chúa Liễu Hạnh” cũng là một hóa thân của “Đức Bà”. Việc này đã gây ra một sự tranh cãi gay gắt làm tốn nhiều giấy mực của giới báo chí.
Rồi sau gần mười bốn năm lặng im, cái tên của Hội Thánh, một lần nữa, lại xuất hiện ở khắp các tờ báo, các diễn đàn, và những cuộc tranh cãi lại tiếp tục nổ ra. Người của Hội Thánh nói rằng họ truyền đạo một cách “chân chánh”, “trung thực”, và chủ yếu là truyền bá chủ nghĩa “đại đồng”, “bình đẳng”. Nếu như họ thực sự là “tà đạo” như báo chí truyền thông ra rả mỗi ngày thì làm sao họ có thể có được gần một triệu tín đồ cơ chứ? Chả lẽ người trong hội biết thuật thôi miên? Thôi nào, đây đã là thế kỷ hai mươi rồi, ba cái trò thuật sĩ phù thủy mê tín thời nay còn ai tin chứ?
“Nếu không phải là thôi miên thì chỉ có thể là siêu năng lực thôi.” Đức nhủ thầm, “Một siêu năng lực điều khiển ý nghĩ chẳng hạn, nhưng nếu nói là điều khiển được tới một triệu người thì…cái người đó chắc hẳn phải mạnh cỡ ông giáo sư đầu trọc ngồi xe lăn trong phim X-men. Còn không thì con số một triệu tín đồ chỉ là Hội Thánh nói phóng đại lên thôi.”
Sau hai tiếng đồng hồ bỏ công đọc hàng chục bài báo viết từ những góc nhìn khác nhau (mà tám mươi phần trăm là những bài mang tư tưởng thù hằn, căm ghét dành cho Hội Thánh – không thua gì những bài viết về người siêu năng lực cả) khiến cho Đức cảm thấy nhiêu đó là quá đủ rồi. Anh xuống nhà ăn cơm vào lúc năm giờ. Sáu giờ, anh lại ngồi vào bàn làm việc, mở máy và đọc báo cáo tới gần mười giờ thì đi ngủ.
Ngày hôm sau là bắt đầu một tuần làm việc mới tại ngân hàng Wilshire. Mọi việc vẫn cứ diễn ra bình thường cho tới sáng thứ Năm. Đã quá mười giờ mà vẫn chưa thấy Khang xuất hiện, điện thoại gọi thì không bắt máy. Đức nhớ ra Khang từng nói là anh hay để điện thoại ở chế độ im lặng vì anh đi làm cả ngày, về tới nhà cũng không có thói quen bật chuông lên.
Mười một giờ ba mươi, khi Đức xuống dưới lầu để chuẩn bị đi ăn trưa với ngài Kim thì Hon từ đâu chạy như bay tới, vẻ mặt hốt hoảng, nói giọng đứt quãng: “Khang…Khang gặp chuyện rồi?”
“Chuyện gì vậy?” Ngài Kim hỏi lại. (Vì ông không hiểu tiếng Việt nên cũng không biết Hon nói gì)
“Khang gặp tai nạn, bị xe tải đυ.ng đến bất tỉnh phải vào viện rồi.” Hon đáp (tiếng Anh)
“Khi nào?” Đức hỏi.
“Hôm qua, là chiều qua… Lúc nãy tôi thử gọi vào máy ổng thì mẹ ổng bật máy và báo cho tôi biết.” Hon thở phì phò, sắc mặt nhợt nhạt. Lúc này tiếng xì xầm từ đám nhân viên bắt đầu lớn dần khiến cho ngài Kim nhăn mặt và quát lên: “Mọi người nhỏ tiếng lại nào!”
“Được rồi, cám ơn ông đã thông báo. Chắc ông cũng biết Khang hiện nằm ở bệnh viện nào và phòng nào luôn rồi chứ?” Đức đáp với giọng bình thản.
“Ừ, bệnh viện Chợ Rẫy, phòng…”
“Viết ra giấy và để trên bàn đi, cái bàn dành cho khách ấy. Rồi ai muốn đến thăm Khang thì cứ đến bàn đó mà xem số phòng. Được chứ?”
“Thôi khỏi đi.” Kiệt – nhân viên chăm sóc khách hàng – lên tiếng và được hưởng ứng bởi một vài nữ nhân viên khác. Hon nghe thế bèn quay sang nhìn họ, trừng mắt giận dữ, mũi thở phì phò. Rồi không nói thêm lời nào, anh bỏ đi lên tầng trên.
Đức và ngài Kim sau đó đi bộ khoảng mười phút đến một quán cơm bình dân gần công ty. Ngài Kim thú nhận rằng giờ đây ông đã bắt đầu “nghiện” những món ăn của Việt Nam rồi: lạp xưởng thì ngọt và béo ngậy, chả trứng thơm và mềm, và cái mùi nước mắm nữa, ăn qua một lần thì thấy “ấn tượng khó phai” làm sao. Họ đến trước cửa quán và ngài Kim gọi món cơm với thịt ba chỉ nướng, thêm một chén canh cải chua. Đức thì gọi một dĩa cơm cá kho và cải xào, không canh.
“Lạ quá!” Ngài Kim nói.
“Cái gì lạ cơ ạ? Là đồ ăn sao?”
“Không, là Khang.” Ngài Kim đáp và nheo mắt, “Hôm nọ đi ăn lẩu và hát karaoke, tôi có hỏi về “năng lực” của Khang và cậu ta nói cậu ta có thể tạo ra “Trường lực”(Force field) mà.”
“Trường gì cơ?”
“Trường lực. Đừng nói với tôi là cậu không biết nó có nghĩa gì nhé!”
“Tất nhiên là tôi biết. Để xem…trường lực…trường…À!” Đức kêu lên, “Chúng tôi gọi nói là “Kết giới”!”
“Kết gì cơ?” Đến phiên ngài Kim hỏi.
“À tôi quên mất, xin lỗi ngài, đó là từ Hán Việt, mà hình như “Trường lực” cũng là từ Hán Việt thì phải.”
“Rốt cuộc cậu đang nói cái gì vậy?”
“Ý tôi là tôi hiểu…tôi hiểu năng lực của Khang nghĩa là gì, đại khái như là ổng có thể tạo ra một màn chắn bảo vệ bản thân khỏi những tác động bên ngoài phải không?”
“Đúng vậy. Và theo như Khang nói thì cậu ta đã phát hiện ra mình có năng lực được nửa năm rồi, và “ngày nào cũng tập luyện” để tăng cường khả năng của mình lên.”
“Tăng cường khả năng ư? Nhưng tại sao Khang lại làm thế?”
“Cậu là một người sếp tồi đấy, cậu biết không?”
Đức đỏ mặt cúi đầu. Ngài Kim bèn nói tiếp: “Khang nói rằng năm lớp Chín cậu bị một chiếc xe hơi tông phải trong lúc đang được ba chở đi chơi. Ba cậu ta bị gãy chân và phải nghỉ hưu sớm còn cậu ta thì có một vết sẹo ở đầu gối trái kèm theo chứng bệnh sợ xe cộ. Từ đó nhà Khang không ai đi xe máy mà chỉ toàn dùng xe đạp, hoặc đi bộ, đi xe buýt. Thế nhưng đi bộ rồi thì Khang vẫn cảm thấy sợ mỗi khi băng qua những ngã tư lớn bởi những chiếc xe cứ lao tới, chả thèm chậm lại hoặc nhường đường gì cả. Cái này tôi đồng ý với Khang: Giao thông ở thành phố này thật kinh khủng, thật hỗn loạn, thật vô trật tự đến phát sợ.”
“Chuyện đó tôi có biết, Khang có kể cho tôi mà. Nhưng tôi vẫn chưa hiểu tại sao Khang cần “luyện tập” năng lực của mình để làm gì?”
“Là thế này, “có” siêu năng lực và “dùng” được siêu năng lực là hai thứ hoàn toàn khác nhau. Một số người ban đầu phát hiện ra mình có khả năng, nhưng rồi sau này muốn dùng khả năng trong tình huống cần thiết thì lại không biết cách nào để “gọi” nó ra cả. Mấy tình huống này coi phim thấy hoài à. Và Khang biết được điều này nên mới tập luyện để lỡ cậu ta có lâm vào tình huống nguy cấp, như bị xe chèn xe tông chẳng hạn, thì cậu ta có thể bật màn chắn lên để bảo vệ bản thân.”
“Ra vậy. Thế ban đầu ngài bảo lạ là lạ chuyện gì?”
“Tôi cho rằng Khang đã khá chăm chỉ trong việc luyện tập, và khả năng hiện tại của cậu ta nếu không muốn nói là gần như nhuần nhuyễn rồi. Vậy mà lại không chịu được cú đâm từ một chiếc xe tải sao? ”
“Ngài Kim, xin lỗi nhưng…”
“Sao?”
“Lời ngài nói có hơi “vô tình” không? Tôi xin lỗi vì đã nói thế. Nhưng đây là đời thực chứ đâu có như phim mà nhân vật chỉ cần bỏ ra vài tháng tập luyện thì đã có thể sử dụng năng lực dễ dàng như vậy? Có lẽ tôi không biết nhiều chuyện về Khang, nhưng làm chung với sau suốt bốn năm qua tôi biết ổng có tính cẩn thận nhưng cũng đôi lúc cẩu thả và sơ suất, mà chủ yếu là do tự tin thái quá nên mới mắc sai lầm như vậy. Lần này gặp tai nạn, tôi nghĩ cũng là do cái lỗi đó mà ra.”
“Ý cậu muốn nói là Khang tự tin vào năng lực của mình đến mức phất lờ một chiếc xe tải đang lao nhanh tới mình sao? Tôi không nghĩ thế. Tôi vẫn tin vào giả thuyết ban nãy của mình, với khả năng hiện tại thì Khang có bị tàu hỏa tông thì cũng không hề hấn gì đâu. Cậu muốn biết tại sao hả? Hôm đi karaoke Khang và Hon đã “biểu diễn” cho tôi xem năng lực của hai người họ, cả hai hiện đang ở một mức hơn hẳn mức năng lực bình thường rồi.”
“Tôi không hiểu?”
“Cơm tới rồi! À cám ơn nhé!” Ngài Kim mỉm cười với cô phục vụ. “Sao, bây giờ thì cậu lại thấy mấy chuyện siêu năng lực này thú vị rồi hả?”
“Siêu năng lực hiển nhiên là thú vị rồi, tôi có nói tôi ghét siêu năng lực bao giờ đâu? Chỉ là… ờ như ngài nói vậy, tôi là một ông sếp tồi không biết gì về nhân viên của mình. Nên bây giờ có cơ hội được biết thêm chả lẽ tôi lại bỏ qua sao?”
Ngài Kim bật cười và rồi ho một tràng dài, có lẽ ông bị sặc cơm. Sau khi uống mấy ngụm trà đá thì ông vuốt ngực mình và thở phì phò, nhìn Đức và nói: “Được rồi, để xem tôi nên nói thế nào cho cậu dễ hình dung đây nhỉ? Năng lực “Trường lực” của Khang là tạo ra màn chắn để bảo vệ cơ thể…Và hiện tại thì Khang đã có thể “mở rộng” và “biến dạng” màn chắn của mình. “Mở rộng” đây có nghĩa là cậu ta có thể dùng màn chắn để bảo vệ không chỉ bản thân mà còn cho những ai đứng gần cậu ta. Còn “biến dạng” đây nghĩa là màn chắn trở nên linh hoạt, có thể co dãn tùy ý.”
“Ủa vậy thì “biến dạng” với “mở rộng” nó hao hao nhau còn gì?”
“Không phải. Sao đây nhỉ? À, trước giờ chúng ta thường nghĩ màn chắn thì phải là thể rắn đúng không? Bởi vì rắn chắc thì mới bảo vệ được người bên trong. Nhưng màn chắn của Khang là dạng như nửa rắn nửa lỏng và nửa khí luôn. Vì nó cứng chắc nên nó là thể rắn, vì nó vô hình trong mắt chúng ta nên nó là thể khí, và vì nó có thể thay đổi hình dạng nên nó là thể lỏng. Một năng lực độc đáo vô cùng.”
Đức im lặng hồi lâu, nhai cho hết mớ thức ăn, nuốt xuống rồi nhìn ngài Kim, nói: “Tôi vẫn chưa mường tượng được màn chắn mà “co dãn” thì nó sẽ ra sao. Có phải kiểu co dãn như cao su không?”
“Ừ thì cũng giống vậy đó. Hôm đó Khang đã cho tôi xem cách cậu ta khiến chai nước bay lên mà không cần chạm tay vào. Ban đầu tôi cứ nghĩ đó là Điều Khiển Vật Bằng Ý Nghĩ (Telekinesis) nhưng hóa ra không phải. Khang đã “biến dạng” màn chắn của mình thành một cánh tay trong suốt, rồi điều khiển cánh tay đó nhấc cái chai lên.”
“Tôi hiểu hơi hơi, nhưng tôi không chắc điều tôi hiểu giống như ngài. Thôi thì bỏ qua đi, vậy còn Hon thì sao? Tôi nhớ ổng có nói ổng có khả năng “Tàng hình”?”
“Tôi cũng tưởng thế. Nhưng rồi Khang nói với tôi đó không phải tàng hình mà là một khả năng khác. Tôi phải công nhận rằng tuy Khang không giỏi trong mảng tài chính cho lắm, nhưng vốn kiến thức trong những lĩnh vực như văn hóa, lịch sử, khoa học thì lại dồi dào phong phú. Đáng lẽ cậu ta nên đi làm thầy giáo hoặc giảng viên thì hay hơn. Cậu ta đã dùng ví dụ về “ba chai nước” để giải thích năng lực của Hon. Ở đây tôi sẽ dùng ba lọ: Nước tương, nước mắm và lọ tiêu này.”
Ngài Kim bày ba cái lọ theo hàng ngang và bảo Đức chú ý vào. Ông lấy ra cái lọ ở giữa và nói: “Đây là tàng hình. Như cậu thấy đó, nếu cái lọ ở giữa trở nên trong suốt thì ta sẽ có thể nhìn xuyên qua nó, và kết quả là ta thấy có khoảng trống giữa hai cái lọ còn lại.”
Ngài Kim bèn đẩy hai cái lọ vào sát bên nhau và nói: “Đây là năng lực của Hon, như cậu thấy đó, phần khoảng trống giữa hai cái lọ đã biến mất.”
“Khoan đã!” Đức lên tiếng, “Khoảng trống giữa hai cái lọ “biến mất” sao? Vậy có nghĩa là…”
“Nghĩa là Hon không chỉ làm bản thân biến mất mà còn khiến cho không gian quanh chỗ cậu ta đứng cũng biến mất theo. Nói cách khác, đây là khả năng “Bẻ cong không gian”.”
Đức tròn mắt nhìn ngài Kim. Nếu những lời ngài Kim nói là thật, mà chắc là thật rồi vì ông có cớ gì để nói xạo cơ chứ? Thì năng lực của Khang và Hon cũng phải thuộc vào hàng “khủng” chứ không phải dạng tầm thường như anh và đám đồng nghiệp thường nghĩ. Chả trách tại sao hôm đi ăn lẩu Khang lại có vẻ búc xúc như vậy. Bản thân có năng lực mạnh mà lại bị người ta coi thường và cười cợt thì ai chả giận chứ? Nghĩ lại thì, đúng là mọi chuyện đều có lý do riêng của nó.
Sau khi kết thúc bữa trưa, Đức và ngài Kim đi bộ về lại ngân hàng. Anh đi tới bàn dành cho khách, liếc nhìn tờ giấy ghi số phòng Khang rồi quay về văn phòng mình. Anh cẩn thận ghi lại số phòng lần nữa vào tờ ghi chú nhỏ để khỏi quên và dán nó vào một góc máy tính.
Trước khi hết giờ làm, ngài Kim xuống gặp Đức và nói rằng hôm nay không cần phải chở ông về vì ông bận đi với người khác rồi. Đức nghĩ “người khác” chắc là Hon nên anh không hỏi gì thêm. Tới lúc ra về, như thường lệ là anh phải đi kiểm tra đèn đóm ở các khu văn phòng, tắt máy lạnh, vặn chặt vòi nước, kiểm tra các cửa sổ…Vì thế nên anh thường là người ra về cuối cùng. Chờ ông chú bảo vệ khóa cửa kĩ càng rồi, anh leo lên xe và phóng đi, nhưng không phải về hướng Bình Chánh mà là hướng Chợ Lớn.
Trước đó anh ghé vào một khu chợ, mua hai lốc sữa hộp và vài thứ trái cây, tất cả cho vào một cái túi túi ni lông. Anh tới bệnh viện, gửi xe vào bãi và bắt đầu đi tìm Khu điều trị. Anh đã hy vọng mình sẽ gặp mẹ của Khang hoặc ít nhất sẽ chạm mặt Hon và ngài Kim. Nhưng rồi rốt cuộc chả có ai cả.
Trong căn phòng rộng lớn với bốn chiếc giường được trải ga trắng tinh tươm, Khang nằm ở cái giường đầu tiên ở góc trái, những giường còn lại thì trống không. Anh bận bộ đồ màu xanh nhạt dành cho bệnh nhân, đắp một tấm chăn màu nâu che tới ngực. Mắt anh nhắm nghiền, mũi anh gắn ống thở và phát ra những âm thanh phì phò. Phía trên đầu anh là một hệ thống máy móc dây với nhợ chằng chịt cùng một màn hình biểu hiện mức huyết áp và nhịp tim. Bên trái giường anh có một cái tủ nhỏ, trên đầu tủ có vài chai nước đã vơi đi chứng tỏ đã có người đến thăm, có lẽ là mẹ anh, họ hàng anh hay bạn bè anh.
Theo như lời Hon kể (mà Hon nghe từ mẹ Khang, mẹ Khang lại nghe từ phía công an, và phía công an thì nghe từ người tài xế lái xe tải) rằng Khang từ đâu lao ra trước đầu xe làm cho ông tài xế không kịp phản ứng. Chiếc xe hất Khang văng ra xa một đoạn, và dù ông lái xe đã đạp thắng nhưng xe vẫn trượt thêm một đoạn dài, cán qua người anh rồi mới dừng lại.
Sau khi đưa đến bệnh viện, các bác sĩ nói cho mẹ Khang (và sau đó bà nói cho Hon biết) là Khang chỉ bị trầy xướt ngoài da thôi, các cơ quan nội tạng không bị tổn hại mấy và xương có vài vết nứt không đáng lo. Còn chuyện vì sao Khang lại hôn mê bất tỉnh thì họ không giải thích được. Họ đã xếp lịch chụp CT não bộ của anh vào thứ Hai và hy vọng sẽ khám phá được phần nào nguyên nhân.
Đức để túi quà lên cái tủ cạnh giường và đứng chờ khoảng nửa tiếng, hy vọng có thể gặp được mẹ Khang để hỏi chuyện. Nhưng chờ lâu quá không thấy ai, bụng lại đói nên anh đành bỏ về, nghĩ rằng lần sau quay lại có thể may mắn hơn. Lúc đó là gần bảy giờ.
Gần ra tới bãi đỗ xe, anh nghe có ai đó gọi tên mình. Ai quay lại nhìn thì thấy…Dương. Trông anh ta giờ có vẻ “bình thường” hơn lần gặp trước. Anh ta không bận bộ đồ phi công nữa mà chỉ có áo thun, quần jean, và giầy sandal. Anh ta thấp hơn Đức một cái đầu nhưng lại có thân thể cường tráng, làn da ngăm và mái tóc xoăn đen tuyền.
“Lại gặp nhau rồi, có duyên quá hả?” Dương nói.
“Phải.” Đức đáp, “Anh đi thăm người quen à?”
“Có quen chút chút, là người trong Hội.”
“Vậy sao?”
“Còn anh đi thăm ai?”
“Nhân viên của tôi, bị xe tông.”
“Xui xẻo quá nhỉ?”
Tới đó thì cả hai im lặng không biết nói gì thêm. Rồi tiếng bao tử kêu ùng ục của Đức làm Dương bật cười: “Anh chưa ăn tối đúng không? Đi, tôi bao.”
“Thôi khỏi!”
“Tôi nài nỉ đấy, hôm nọ tôi làm anh bị thương tôi chưa đền bù gì mà.”
“Tôi đâu có sao, không cần đền bù gì đâu.”
Im lặng. Rồi như hiểu ý, Dương nói: “Tôi sẽ không nói gì về Hội đâu, anh yên tâm. Tôi chán lắm rồi.”
“Anh chán ở trong Hội sao?”
“Tôi chán những việc họ đang làm! Tôi hứa sẽ không đả động gì tới họ đâu. Đi chứ?”
Đức trầm ngâm một hồi, nghĩ tới lần trước đã từ chối Dương một lần rồi, lần này từ chối nữa thì có hơi bất lịch sự. Nhưng nếu nhận lời rồi sau này anh ta có cớ “đeo bám” theo mình thì sao? Đức vẫn cứ có cảm giác cái Hội Tiến Bộ này không khác mấy công ty bán hàng đa cấp là bao: Họ có một cái tên khá là “kêu”, nhưng những thông tin cơ bản như ngày thành lập, người sáng lập, trụ sở thì lại không có…
Mà thôi, một bữa ăn cũng có chết chóc gì – Đức nghĩ thầm. Vả lại anh cũng muốn nhân đây xem “biểu hiện” của Dương có giống với đám người bán hàng đa cấp không - cái đám hay bận đồ vest may sẵn, mang giầy tây, thắt cà-ra-vát nhưng lại chỉ đi xe buýt, uống trà đá và ăn mì tôm để sống qua ngày ấy.
“Được rồi, anh chọn quán đi.”
“Lâu rồi tôi không ăn món Huế, tôi biết chỗ này, gần đây thôi.”
“Anh đi trước, tôi theo sau!” Đức đáp.
Bảy giờ sáu phút, hai người đã được xếp vào một bàn trống. Họ gọi một phần gỏi ngó sen, một phần nem chua, một phần nem nướng, một phần chả giò cung đình, một chạo tôm, một dĩa cơm Cố Đô và hai dĩa bánh khoái.
Từ lúc gọi món cho tới lúc tất cả các món được dọn lên, họ không biết phải nói gì nên mỗi người móc điện thoại ra và làm như đang kiểm tra tin nhắn hay tin tức nào đó. Sau cùng, Đức thấy im lặng mãi không hay nên lên tiếng trước:
“Tôi hỏi anh chuyện này, nếu anh không muốn trả lời cũng không sao đâu.”
“Hỏi đi.” Dương gắp miếng chả giò, chấm vào dĩa nước mắm.
“Hôm nọ anh có với tôi là anh bị… mất trí nhớ, phải không?”
“Đúng vậy.”
“Anh bị như vậy từ khi nào?”
Dương buông đũa, mắt chợt nhìn xa xăm rồi thở dài: “Vào ngày đó!”