Tôi đã kể câu chuyện khi tôi bị bắt, và không ai muốn nghe tôi nói cả. Rồi tôi đã nhắc lại chuyện đó ở phiên tòa: nói tất cả, đúng hệt như sự việc đã xảy ra, không thêm, không bớt một chữ nào. Tôi đã nói hết sự thật, tôi xin thề đúng vậy? Tất cả những gì mà phu nhân Mannering đã nói, tất cả những gì mà tôi đã nói và đã làm, tôi đã kể lại không thay một dấu phẩy, và tôi đã được lợi lộc gì trong vụ này? “Phạm nhân đã mải mê trong một lời khai lan man và không đúng sự thật, không thể tin được vì các chi tiết của nó, và không dựa trên một sự khởi đầu nào của những bằng chứng hỗ trợ”. Đó là tin mà một nhật báo ở Luân Đôn đã loan đi. Những nhật báo khác thì lại làm như tôi không tự bào chữa cho mình. Tuy là chính mắt tôi đã trông thấy ngài Mannering bị ám sát, và tôi cũng vô tội trong vụ án này như bất cứ một ủy viên nào trong bồi thẩm đoàn đã kết tội tôi.
Thưa ngài, ngài là người tiếp nhận đơn xin ân xá của các phạm nhân. Tất cả tùy thuộc vào ngài. Tôi chỉ xin ngài một điều: đọc lá đơn của tôi, chỉ cần đọc nó thôi, rồi thực hiện một cuộc điều tra nhỏ về tính tình của vị “phu nhân” Mannering này, để xem bà ấy có giữ được cái danh hiệu mà bà ấy đã mang từ ba năm trước, khi tôi gặp bà ấy để chuốc lấy tù tội và sự tan nát của đời tôi. Ngài sẽ có thể giao vụ điều tra này cho một thám tử tư hay một người của tòa án; ngài sẽ mau chóng biết rõ đầy đủ về sự việc để hiểu rằng câu chuyện của tôi là đúng sự thật. Xin ngài hãy nghĩ tới sự vinh quang mà ngài sẽ đạt được nếu tất cả các nhật báo đều loan tin rằng một vụ án bất công không thể dung thứ được chắc chắn sẽ xảy ra nếu không có lòng kiên trì và sự tinh tế của ngài. Đó sẽ là phần thưởng của ngài, vì tôi nghèo túng và tôi không thể biếu tặng ngài một thứ gì. Nhưng nếu ngài khoanh tay ngồi yên, thì ngài sẽ có thể không bao giờ thấy được một giấc ngủ ngon trên giường! Sẽ chẳng có đêm nào trôi qua mà ngài không thấy bị ám ảnh bởi ý nghĩ về một con người đang chết dần, chết mòn trong nhà tù vì ngài đã không làm tròn nhiệm vụ mà ngài được giao phó! Nhưng thưa ngài, ngài sẽ làm tròn nhiệm vụ đó, tôi tin chắc ở điều này. Ngài chỉ cần làm một hay hai cuộc điều tra nhỏ, và ngài tự nhắc nhở mình rằng kẻ duy nhất được hưởng lợi trong vụ án mạng là phu nhân Mannering, vì vụ án mạng đã làm cho một người đàn bà khốn khổ trở thành một góa phụ giàu sang. Tôi đã đặt vào tay ngài một đầu mối. Ngài chỉ cần đi theo nó; ngài sẽ thấy nó dẫn ngài tới nơi nào.
Thưa ngài, xin ngài lưu ý rõ ràng là tôi không kêu ca gì về các việc liên quan tới vụ trộm. Tôi không ta thán gì về những điều mà tôi đáng phải chịu, và cho tới nay tôi chưa phải nhận hình phạt nào nhiều hơn là hình phạt mà tôi đáng phải chịu. Quả thật là đã có một vụ trộm và ba năm tù của tôi là để đền tội đó. Trong phiên tòa, người ta chỉ ra rằng tôi đã tham dự vào vụ của Merton Cross, và rằng tôi đã ngồi tù một năm vì chuyện đó, đó là lý do tại sao lời khai của tôi đã được tiếp nhận một cách tệ hại như thế. Một kẻ tái phạm thì bao giờ cũng bị tình nghi. Tôi nhìn nhận vụ ăn trộm. Nhưng khi người ta nói với tôi về vụ án mạng đã khiến tôi bị kết án tù chung thân (và bất cứ một vị quan tòa nào ngoài ngài James, đều rất có thể đưa tôi lên đoạn đầu đài) thì tôi trả lời tôi không dính líu gì trong vụ này và tôi vô tội. Bây giờ tôi sẽ trở lại cái đêm hôm 13 tháng 12 năm 1894, và tôi sẽ kể lại một cách chính xác với ngài về những gì đã xảy ra. Nếu tôi nói sai sự thật một chút nào thì xin bàn tay của Thượng Đế hãy gϊếŧ chết tôi đi.
Vào khoảng giữa mùa hè, tôi đi tới Bristol để tìm việc làm, nhưng tôi chợt nảy ra ý nghĩ là tôi sẽ có thể xoay xở được ở Portsmouth, vì tôi là một thợ máy giỏi; vì vậy tôi đi ngang qua miền nam nước Anh, bằng cách nhận các công việc làm trên đường đi mỗi khi mà tôi kiếm được việc làm. Tôi cố gắng để khỏi có những sự phiền muộn, vì tôi đã đền tội một năm trong nhà tù ở Exeter, và điều đó cũng đủ với tôi rồi. Nhưng không có gì khó khăn bằng sự đi tìm việc làm khi mà tên của mình đã bị một dấu chữ thập đen dính vào; suýt nữa thì tôi đã bị chết đói. Sau cùng, sau khi trải qua mười ngày đi chặt củi và đập đá vụn để kiếm một đồng lương chết đói, tôi đã tới gần Salisbury với hai đồng bạc trong túi, và một lòng kiên nhẫn cũng tồi tệ như đôi giày của tôi vậy. Trên đường đi, khoảng giữa Blanford và Salisbury, có một quán rượu với tấm bảng hiệu “Thiện chí”. Tối hôm đó, tôi thuê một cái giường ở quán rượu này. Tôi ngồi có một mình trong tửu quán, một ít lâu trước giờ đóng cửa, khi chủ quán, một người tên là Allen, đi tới ngồi cạnh tôi và bắt đầu nói với tôi về những chuyện tầm phào trong xứ. Đó là một người thích nói và muốn có người nghe hắn nói; tôi là kẻ chẳng có việc gì để làm, tôi ngồi lại đó để hút thuốc trước một bình rượu bia mà hắn đem cho tôi. Tôi đã nghe hắn nói một cách lơ đãng, cho tới lúc hắn bắt đầu nói ba hoa (hình như ma quỷ nhập vào hắn) về những nhà đại phú ở lâu đài Mannering.
Tôi hỏi:
- Đó là cái nhà lớn ở mạn bên phải trước khi tới ngôi làng phải không? Cái nhà nằm giữa một hoa viên tư phải không?
- Đúng thế!
Tôi sẽ nhắc lại hết cuộc nói chuyện của chúng tôi để ngài thấy rằng tôi nói đúng sự thật và tôi không giấu ngài một điều gì.
- Tòa nhà trắng dài với những cây cột. Ở cạnh con đường Blandford.
Vâng, tôi đã để ý tới nó khi đi qua; tôi đã tự nhủ một cách rất ngu xuẩn rằng đó là một căn nhà rất dễ ăn trộm với một dãy dài các cửa sổ lớn và những cửa lớn l*иg kính. Tôi đã xua đuổi ý nghĩ này, và nay thì anh chàng chủ quán lại nhắc tới cái nhà đó với câu chuyện những nhà phú hào cư ngụ tại lâu đài Mannering. Tôi không nói gì cả, nhưng tôi lắng tai nghe, và làm như một việc khẩn thiết, hắn ta quay trở lại câu chuyện.
- Lúc còn trẻ, ông ta đã bần tiện rồi. Đó, anh nghĩ là với tuổi tác ông ta vẫn không cải đổi gì cả. Tuy vậy, với tiền bạc của ông ta, ông ta đã làm nhiều việc không đến nỗi tệ lắm.
Tôi hỏi:
- Ông ấy đã có thể làm được việc gì, với tiền bạc mà ông ấy không dám tiêu pha?
- Hà, ông ta đã có thể mua được người đàn bà đẹp nhất nước Anh! Đó không phải là điều quá tệ. Cô ấy tưởng tượng là cô ấy sẽ có tiền bạc tiêu xài; hôm nay thì cô ấy đã vỡ mộng rồi.
- Cô ấy là ai vậy?
Tôi đã đặt những câu hỏi, chỉ là để có chuyện mà nói thôi.
- Một cô gái cầu bơ, cầu bất trước khi được nhà quý tộc già cưới làm vợ. Cô ta từ Luân Đôn tới. Một vài người nói chắc rằng cô ấy là diễn viên, nhưng không ai chứng thực được điều này. Nhà quý tộc già vắng nhà trong một năm. Khi ông ta trở về, ông ta dẫn theo một phụ nữ trẻ, người mà từ đó không ra khỏi tòa lâu đài nữa. Stephens, người đầu bếp, đã có lần kể lại với tôi rằng cô ấy là ánh sáng trong căn nhà khi cô ấy tới đó nhưng với những cung cách bần tiện và kiêu căng của ông chồng, với sự cô độc bao quanh ông ta (vì ông ta ghét tiếp khách) và với lời nói khắc bạc của nhà quý tộc (vì ông ta có một cái lưỡi như nọc ong vò vẽ), tất cả cuộc sống bây giờ hình như đã xa lánh cô ấy: cô ấy trở nên xanh xao, trầm lặng, suốt ngày đi thơ thẩn trên những con đường quê, lòng nặng ưu phiền. Cũng có nhiều người nói rằng cô ấy yêu một người đàn ông khác, rằng cô ấy đã không cầm lòng được trước sự cám dỗ của tiền tài, và bây giờ thì cô ấy trở nên tiều tụy buồn phiền vì cô ấy đã mất người yêu mà cũng chả có giàu sang. Bất kể tiền bạc của chồng, cô ấy là người đàn bà nghèo nhất trong giáo xứ.
Thưa ngài, chắc ngài hiểu rõ rằng những chuyện cãi cọ giữa một nhà quý tộc và một bà phu nhân chẳng ăn nhằm gì đến tôi cả. Việc cô ấy căm ghét tiếng nói của ông chồng hoặc ông ta làm cô ấy bực bội vì những lời mai mỉa, chế giễu với hy vọng là làm hủy hoại tâm hồn cô ấy, hoặc là ông ta nói với cô ấy như chưa từng bao giờ nói như vậy với một người trong bọn tôi tớ của ông ta, có thể làm tôi bận tâm ư? Gã chủ quán đã kể cho tôi nghe hàng lô chuyện ở đó, nhưng chúng đã ra khỏi đầu óc tôi, vì chúng không liên can gì tới tôi. Ngược lại, điều tôi muốn biết là tài sản của nhà quý tộc Mannering gồm những thứ gì? Những chứng khoán, những cổ phần đều chỉ là những giấy tờ và là nguồn gốc của tai họa nhiều hơn là lợi lộc cho kẻ nào chiếm đoạt chúng. Trái lại, quý kim và các đồ nữ trang mới đáng với sự mạo hiểm. Như thể hắn ta đã đoán được tất cả ý nghĩ của tôi, gã chủ quán nói với tôi về bộ sưu tập lớn lao các huy chương bằng vàng của nhà quý tộc Mannering; hắn nói với tôi rằng khắp trên thế giới không có bộ sưu tập nào như vậy; người ta đã tính rằng nếu đem bỏ chúng vào một cái bao thì người lực lưỡng nhất trong giáo xứ cũng không nâng nổi nó. Tới lúc đó thì vợ hắn gọi hắn đi ngủ; chúng tôi chia tay nhau.
Thưa ngài, không phải là tôi đang tự biện hộ cho tôi, nhưng tôi xin ngài suy xét lại các sự việc, và xin hỏi ngài rằng có người nào lại bị cám dỗ một cách tàn bạo hơn tôi nữa. Tôi nhìn nhận rằng rất ít người có thể chống cự lại được. Đêm hôm đó tôi nằm duỗi dài trên giường, không chút hy vọng mà cũng chẳng có công việc làm, với một đồng bạc cuối cùng trong túi. Tôi đã cố sức làm người lương thiện: những người lương thiện đã quay lưng lại với tôi; họ quở trách tôi đã là một tên ăn cắp và đồng thời họ đẩy tôi trở lại thành một kẻ ăn cắp. Tôi đã dấn thân vào dòng nước; tôi không thể ra thoát khỏi nữa. Rồi thì ở nơi đó tôi đã gặp cơ hội như vậy. Một tòa nhà lớn với tất cả những cửa sổ của nó, những huy chương bằng vàng là thứ dễ nấu chảy ra, y như là để một miếng bánh trước một kẻ đang đói mà nghĩ rằng hắn sẽ không nhai ngấu nghiến miếng bánh đó. Tôi đã cưỡng lại được một lúc, nhưng vô hiệu. Tôi ngồi dậy, và tôi thề rằng, ngay tối hôm nay, hoặc là tôi sẽ giàu có và tôi sẽ có được các phương cách để chào vĩnh biệt tội ác, hoặc là những cái còng lại một lần nữa khép lại trên cổ tay tôi. Tôi mặc quần áo vào tôi đặt một đồng bạc trên bàn (vì gã chủ quán đã đối xử tử tế với tôi và tôi không muốn lường gạt hắn). Tôi đi ra bằng ngả cửa sổ và tôi thấy mình đứng trong vườn của quán rượu.
Một bức tường cao bao quanh khu vườn. Tôi phải vất vả lắm để leo lên tường; nhưng khi đã sang tới bên kia tường thì mọi việc đã dễ dàng. Tôi đã không gặp một người nào trên đường đi, và tấm lưới sắt của ngõ vào để mở ngỏ. Không có gì động đậy ở nhà của người gác cổng. Trăng sáng vằng vặc, xuyên qua một vòm cong các cây cối, tôi nhận rõ tòa nhà lớn màu trắng. Tôi đi vào khoảng bốn trăm mét, và tôi đã tới trước cái cửa ở bên cạnh lối đi; nấp mình trong bóng tối, tôi quan sát tòa nhà dài với những cửa sổ lấp lánh dưới ánh sáng trắng như bạc. Tôi tự hỏi tôi sẽ tìm thấy lối vào dễ nhất ở chỗ nào đây, cái cửa sổ ở chỗ góc cho tôi cảm tưởng là nó ở nơi khuất nẻo nhất vì cây trường xuân rủ xuống từng chùm rậm rạp khắp chung quanh. Tôi bước lại phía cái cửa số này trong khi lẩn dưới các cây cối, rồi tôi bò đi dưới bóng của cái nhà. Một con chó sủa lên, co kéo sợi dây xích của nó; tôi đợi cho nó nằm im; tôi lại tiến bước một cách lén lút, và cuối cùng tôi đã đi tới dưới cái cửa sổ mà tôi đã ghi nhớ.
Thật là đáng ngạc nhiên khi thấy ở miền quê mọi người thường lơ là, vô tâm? Tưởng rằng ở xa thành thị, người ta không bao giờ nghĩ tới những tên ăn trộm. Thật đúng là nhứ một con quỷ khốn khổ khi bàn tay nó đặt lên cánh cửa, mở nó ra không một chút khó khăn.
Trong trường hợp của tôi thì không phải hoàn toàn đơn giản như vậy, nhưng cái cửa sổ (một cái cửa sổ có cánh sập xuống) lại không cài chốt; tôi mở nó bằng cách dùng một lưỡi dao lớn. Tôi nâng nó lên, tôi nhét con dao vào giữa các tấm cánh cửa, tôi đẩy chúng về phía trước và tôi tụt xuống căn phòng.
- Chào ngài! Ngài tới thật đúng lúc - một giọng nói cất lên.