Chương 2: Ngọc Kỳ Lân

Sáng Hoàng Hoa, bạch thiếu niên gạt hồi ức cũ.

Sơn trang đêm, Chu Đình Úy ôn lại chuyện xưa.

Thảo nguyên Hoàng Hoa.

- Sư phụ! Người đừng nói nữa, đừng nói nữa! Con xin người, xin người đó! Đừng nói nữa!

Tạ Sâm gắng gượng hết sức, thốt ra từng lời đứt quãng:

- Tiểu vương gia! Huyết án năm xưa là do một tay Thành Phá Lãng gây ra. Chỉ có điều, địa vị.. địa vị trong triều của ông ta quá lớn. Không phải ngày một ngày hai là có thể lật đổ được.. khụ khụ khụ..

Máu tiếp tục ứa ra từ cổ họng làm chặn đứng câu chuyện lòng dang dở.

Nhắm mắt nghe nỗi đau thảm án, nghiến răng cảm thán năm trăm mạng người, Tạ Vô Phong nhìn Tạ Sâm xót xa, hỏi:

- Nếu là vậy, hà cớ gì hắn lại tha cho con?

Khựng lại bao cảm xúc vì câu hỏi như là điểm nút của lý do ẩn nhẫn mười bảy năm qua. Tạ Sâm nhìn Tạ Vô Phong, miệng cười khổ. Mắt ông long sòng sọc những đường gân đỏ, ngập tràn màu máu mênh mông giữa ánh xanh của cánh rừng trúc trong cuộc rượt đuổi tìm con đường sinh tử.

* * *

Người đàn ông nắm chặt tay của một đứa trẻ chạy thật nhanh về phía cổng thành, ngựa phi nước đại men theo bìa rừng đi mãi, bỏ lại phía sau nơi chôn nhau cắt rốn.

Phủ Bình Dương nguy khốn, thuộc hạ Tạ Sâm tham sống sợ chết, bỏ mặc chủ nhân, bỏ trốn cùng con trai. Ai cũng đều cho là như vậy, kể cả hắn cũng phải cho là như vậy.

- Tạ thúc thúc, chúng ta đi đâu vậy?

Tạ Sâm ngoái đầu về sau, tay ôm chặt Trương Hàng Phong vào lòng, kiềm nén đau thương, nghẹn ngào nói:

- Vương gia, ngài yên tâm, thuộc hạ dù chết cũng sẽ cố hết sức mình bảo vệ giọt máu cuối cùng của Trương gia.

Trương Hàng Phong chỉ mới năm tuổi, vốn chẳng hiểu được cơ sự gì, liền chẳng biết chẳng hay bị Tạ Sâm kéo tay đi, thảy lên yên ngựa, tức tốc phi nước đại. Cậu đã nín khóc, từ lúc mưa bắt đầu tạnh, nước mắt trên mặt cậu đã khô và tuyệt nhiên không còn rơi thêm giọt nào nữa.

- Tạ thúc thúc, chúng ta đi đâu vậy? Cha mẹ con họ có đi cùng chúng ta không? Bao giờ thì chúng ta quay về đó?

Tạ Sâm nhìn Trương Hàng Phong, cậu còn quá nhỏ để phải gánh chịu nổi đau lớn lao này, hắn càng thêm nghẹn ngào, một lời cũng không nói nổi "Tiểu vương gia, chúng ta đã vĩnh viễn không thể quay về đó được nữa rồi".

Đuổi theo!

Tạ Sâm nhìn về phía sau, nơi xanh um những tàng tre ngọn trúc, nơi gác lại quá khứ, nơi chôn vùi huyết án tan thương, hắn giục:

- Tiểu vương gia! Người mau ôm lấy ta, nhanh lên!

Hí hí hííííí..

Đầu ngựa bị chặn lại bởi một tuấn mã khác, người trước mặt khoác một chiếc áo choàng màu đỏ, làm nổi bật thân ảnh nam nhi khôi ngô giữa núi rừng xanh ngát. Tạ Sâm thoáng chút bàng hoàng:

- Thiếu trang chủ? Ngài, sao lại đến đây?

Chu Đình Úy đưa ánh mắt đau xót nhìn vào Trương Hàng Phong, giây phút cảm thán qua đi, chàng nhìn Tạ Sâm rồi nói:

- Mau đưa Phong nhi rời khỏi đây. Về phía Tây 2 dặm, có một sơn cốc, dưới sơn cốc có đồ ta chuẩn bị cho hai người. Đưa nó đi, đến một nơi không ai biết, nuôi dưỡng nó trưởng thành. Đi nhanh!

Tạ Sâm đắn đo hỏi lại:

- Ta đi rồi, ngài phải làm sao?

Chu Đình Úy cười nói:

- Không sao, cha ta dẫu gì cũng có chút giao tình với thừa tướng đương triều. Trần Lăng là ai chứ? Chỉ là một đô úy nhỏ nhoi bên cạnh Thành Phá Lãng, tuy lão chủ đó của hắn nắm trong tay không ít quyền hành nhưng trong triều cũng phải kiêng nể thừa tướng đôi phần. Hắn không dám làm gì ta đâu. Đi mau!

Tạ Sâm hai tay ôm quyền, nói:

- Được! Đa tạ! Ân tình này ngày sau Tạ Sâm ta nhất định báo đáp.

Trông ngựa của Tạ Sâm vừa quay đầu, Chu Đình Úy như nhớ ra điều gì đó, liền lên tiếng:

- Khoan đã!

Nhích ngựa một đoạn chặn lấy đầu ngựa của Tạ Sâm, Chu Đình Úy lấy trong ngực áo ra một mảnh ngọc bội, bên trên có hình bán nguyệt đưa cho Tạ Sâm và nói:

- Đây là tín vật của U Linh sơn trang, hãy giữ lấy phòng về sau cần đến. Thay ta chăm sóc tốt cho Phong nhi. Bảo trọng!

Tạ Sâm giữ chắc tín vật trong tay, ôm quyền kính cẩn:

- Bảo trọng!

Đông Xưởng.

Dưới ánh nến mập mờ của tầng hầm mật thất, Thành Phá Lãng với bộ hắc phục khắc ưng long, uy nghiêm, oai võ, khí thế ngang nhiên chễm chệ, tay nắn cổ tay, điệu nghệ và hứng thú, đưa ánh mắt dò xét, hỏi:

- Ngươi chắc chắn Bình Dương phủ không một ai sống sót?

Cung kính cúi đầu, Trần Lăng nói:

- Bẩm lão chủ, thuộc hạ bất tài đã để Tạ Sâm chạy thoát.

Cổ tay dừng xoay, mắt liếc xoáy, Thành Phá Lãng nhìn thuộc hạ đắc lực nhất mà ông tin tưởng, dường như có dụng tâm khác, ông khẽ khàng nhẹ giọng:

- Không sao! Tạ Sâm cũng chẳng phải là kẻ khó đối phó.

Nhấp chén trà nóng, Thành Phá Lãng nhìn Trần Lăng, hỏi khẽ, trong âm giọng mang vài phần sát ý:

- Ngọc Kỳ Lân đâu?

Trần Lăng vội quỳ phụp xuống, cúi đầu sát đất, hai tay ôm quyền, giọng run rẩy:

- Lão chủ tha tội.

Thành Phá Lãng hạ thấp tầm mắt, tay nâng ly trà đưa lên miệng, giọng trầm xuống, hỏi:

- Không tìm thấy?

Trần Lăng run rẩy, lắp bắp:

- Bẩm, bẩm lão chủ. Có thể.. có thể là.. là..

Đặt mạnh ly trà xuống bàn làm nước bên trong văng tung tóe, Thành Phá Lãng lớn tiếng:

- Là sao?

Đầu vẫn cúi sát đất, hai tay và cơ thể vẫn run. Trần Lăng chậm chạp nói:

- Bẩm lão chủ! Ngọc Kỳ Lân không có trong phủ. Thuộc hạ cho rằng Tạ Sâm đã mang theo nó cùng con trai hắn ta.

Cổ tay ngừng xoay, chầm chậm kéo chén trà về chỗ cũ, Thành Phá Lãng nhíu mày, hỏi:

- Đích tử của Trương Nhất Sơn, nó thế nào?

Trần Lăng tự tin báo lại:

- Lão chủ yên tâm. Trương Hàng Phong cũng chết rồi! Là thuộc hạ đã đích thân gϊếŧ nó.

Thở phào nhẹ nhõm, Thành Phá Lãng ngồi lại xuống ghế, đặt tay trái lên bàn, tay phải cầm đoản kiếm lia vài đường qua lại, tia sáng heo hút từ cửa nhỏ của tầng hầm làm ánh lên vẻ sắc bén của hung khí đoạt mệnh. Nở một nụ cười gian hiểm, ông lên tiếng, làm giật mình tên thuộc hạ đang quỳ trước mặt:

- Vậy sao ngươi không cho người đi tìm Tạ Sâm? Thứ ta cần đâu phải vài mạng người nhỏ nhặt của phủ Bình Dương.

Ngẩng mặt nhìn sắc thái của Thành Phá Lãng, trông qua ánh mắt đã có chút thần hồn, Trần Lăng yên tâm phần nào, liền nói:

- Thuộc hạ đã cho người đuổi theo, nhưng..

Thành Phá Lãng nhíu mày lần nữa, hỏi gặng:

- Lại thế nào?

Trần Lăng tay ôm quyền, mắt vẫn lưu tâm sự biến đổi trên mặt Thành Phá Lãng, nói:

- Bẩm Lão Chủ..

Thành Phá Lãng ngắt lời của Trần Lăng, đây là điều không mấy ngạc nhiên. Từ lâu, vì không có con trai nên Trần Lăng được ông xem như nghĩa tử. Nếu không phải như vậy, ông sao có thể để hắn đi làm việc trọng đại này.

- Đứng lên nói chuyện.

Trần Lăng nhẹ nhõm, ôm quyền, nói:

- Tạ lão chủ. Bẩm lão chủ, thuộc hạ và đám cận vệ đã đuổi theo tới bìa rừng, không thấy Tạ Sâm và con trai ông ta đâu nhưng lại gặp được thiếu trang chủ của U Linh sơn trang.

Thành Phá Lãng cười khẩy:

- Chu Đình Úy? Hắn đến làm gì? Đến để cứu Trương Nhất Sơn hay.. đến vì ngọc Kỳ Lân?

Trần Lăng dõng dạc:

- Lão chủ anh minh! Hắn quả thật là vì ngọc mà đến.

Thành Phá Lãng bật cười thích thú, nói:

- Haha! Người trong thiên hạ ai ai cũng muốn có giang sơn và vì thế mà chuyện những kẻ đó muốn có ngọc Kỳ Lân là điều dĩ nhiên. Nếu không phải vì chút giao hảo của cha hắn Chu Lĩnh và Trương thừa tướng, ta cũng đã không nhiều lần nhượng bộ.

Trần Lăng nói tiếp:

- Thuộc hạ cho rằng Tạ Sâm lấy ngọc vì hắn cũng muốn có giang sơn. Nhưng khi đuổi gần tới chân núi, bên dưới là vực thẩm sâu vạn trượng, chỉ cần rớt xuống thì chắc chắn sẽ thịt nát xương tan, đừng hòng sống sót. Thuộc hạ chính mắt nhìn thấy hắn đã cùng con trai nhảy xuống đó, chắc hẳn là chết không toàn thây. Lão chủ có thể yên tâm.

Cổ tay vẫn xoay, chân vẫn nhịp. Thành Phá Lãng nhìn Trần Lăng, hỏi:

- Ngươi theo ta lâu như vậy, vẫn không thay đổi được suy nghĩ đó sao?

Trần Lăng đưa mắt nhìn Thành Phá Lãng rồi nói:

- Lão chủ, thuộc hạ không hiểu. Mong lão chủ chỉ dạy!

Thành Phá Lãng cười nửa miệng, sau đó đưa mắt nhìn Trần Lăng, từ tốn nói:

- Tạ Sâm theo Trương Nhất Sơn chinh chiến bao năm, ít nhiều gì cũng học được vài khả năng phòng thân trong lúc nguy cấp. Ta không tin hắn dễ dàng chết như vậy. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. Ta muốn cả Tạ Sâm cùng con trai hắn.

Vừa dứt lời, Thành phá Lãng đột nhiên tiến về phía Trần Lăng, thấp giọng:

- Cho người đi tìm Tạ Sâm về đây! Trước mắt, hắn là manh mối duy nhất của ngọc Kỳ Lân.

Trần Lăng ôm quyền:

- Thuộc hạ đã rõ! Xin lão chủ yên tâm!

* * *

- Vậy.. đứa bé mà Trần Lăng đã gϊếŧ là?

Tạ Sâm nhìn ánh mắt nghi ngờ của Tạ Vô Phong mà lòng thêm quặng thắt, miệng cười khổ:

- Đúng vậy! Là con trai.. con trai của ta.

Tạ Vô Phong suy sụp, ngã khuỵu tại chỗ:

- Sư phụ? Người.. người..

Tạ Sâm nhắm hai mắt lại, giọt nước mắt hiếm hoi sau mười bảy năm cuối cùng đã có thể rơi, bí mật kia cuối cùng cũng đã có thể nói ra, ông xót xa nói:

- Ân tình mà ta nhận từ vương gia đâu chỉ có bấy nhiêu. Nếu năm xưa không có vương gia tương cứu thì ta.. thì ta hẳn đã chết từ hơn hai mươi năm trước rồi.

Tạ Vô Phong bàng hoàng, chàng thật không dám tin mọi chuyện đang nghe thấy, thứ chỉ xuất hiện trong lời kể của những lão nhân nay lại có thể xảy ra với chính bản thân chàng.

- Sư phụ! Còn người cứu chúng ta là ai vậy? Thân phận người đó thế nào? Sao lại dám cả gan đối đầu với Thiết Y Vệ?

Tạ Sâm cười buồn, nói:

- Tiểu vương gia! Nếu người đó đến sớm hơn một chút, không biết chừng còn có thể cứu cả vương phủ chứ nói gì đến cái mạng của hai chúng ta. Chu Đình Úy là con trai duy nhất của trang chủ U Linh sơn trang Chu Lĩnh. Chu Lĩnh là bạn thuở hàn vi của thừa tướng đương triều Trương Tâm Chí, người này thân phận cao quý, địa vị cũng không phải tầm thường. Tuy U Linh sơn trang không qua lại với bên ngoài nhưng bản tính Chu Đình Úy rất trung nghĩa, vị tha lại có lòng nhân hậu, biết đâu sau này người có thể nhờ cậy.. khụ khụ khụ..

Tạ Vô Phong sốt sắng:

- Sư phụ? Người đừng nói nữa. Con biết rồi! Con nhất định điều tra rõ ràng chân tướng vụ thảm sát năm đó. Người nhất định phải khỏe lại, cùng con đi tìm ra sự thật.

Tạ Sâm gắng gượng:

- Tiểu vương gia, người nghe ta nói. Lần này ra đi, nguy hiểm trùng trùng, phải cẩn thận mọi sự, không được hấp tấp. Phàm là chuyện gì cũng phải hết sức cẩn trọng, không được quá tin người, hành sự kín đáo tránh để lộ thân phận. Còn nữa, người phải giữ thật kĩ miếng ngọc bội đó. Nó sẽ giúp người chứng minh thân phận với trang chủ của U Linh sơn trang.

Tạ Vô Phong gật đầu, miệng nói liên hồi:

- Con biết rồi, con biết rồi, sư phụ! Người yên tâm đi mà. Bây giờ, quan trọng nhất là..

Tạ Sâm giữ chặt cánh tay Tạ Vô Phong, nở nụ cười mãn nguyện, ông đưa mắt nhìn lên bầu trời lúc này đã trở lại xanh trong, miệng nở một nụ cười an nhiên:

- Vương gia, thuộc hạ đã có thể yên lòng đến gặp ngài rồi!

Tạ Vô Phong thất thần, cổ họng cứng ngắt, thốt không nên lời. Lệ Ân Đình òa lên khóc nức nở:

- Sư phụ!

Khoảnh khắc này Tạ Vô Phong cuối cùng cũng hiểu, giấc mơ của mười năm qua là gì, kí ức luôn khiến l*иg ngực chàng đau thắt đến mức không thở được đó là gì, ngay thời khắc này, nó rõ ràng và chân thật hơn bất cứ thứ gì tồn tại trên đời. Sự mất mát hôm nay tính ra không là gì so với ngày hôm đó nhưng lại quá đỗi chân thật, nó khiến chàng như tỉnh mộng, mười bảy năm qua thật ra chỉ bằng một lần chớp mắt.

Bầu trời Hoàng Hoa vẫn một màu xanh ngát, thảm hoa trên cát vẫn nở, rực rỡ một góc trời thảo nguyên. Đỉnh núi vẫn mọc thêm vài chồi non nhỏ, cành cây gần đó cũng chìa ra thêm vài nhánh lớn. Dưới lòng đất của Hoàng Hoa ngày đó lại có thêm một xác chết được chôn, trên mặt đất của buổi sáng hôm đó đã nổi lên một mộ phần nghi ngút khói.

Lệ Ân Đình khóc nức nở, vừa lau nước mắt vừa tức giận, lời nói không mấy rõ ràng:

- Bọn chúng không phải con người, là ác quỷ. Năm trăm mạng người, là năm năm đó, sao lại có thể vì một câu nói mà..

Ngắt ngang lời Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong lãnh đạm nói:

- Không phải năm trăm mà là.. năm trăm lẻ một! Ta nhất định bắt họ nợ máu phải trả bằng máu.

Thả lỏng bàn tay đã in hằn những vết bấu sâu hoắm, Tạ Vô Phong như cảm thấy mình được sinh ra lần hai, chỉ một khắc thôi lại đủ để chàng hiểu ra, mười bảy năm qua, chàng đã sống thật sự quá dễ dàng.

Lệ Ân Đình đưa tay nắm lấy bàn tay đang run rẩy của Tạ Vô Phong, thấp giọng:

- Sư huynh, huynh đừng làm muội sợ mà!

Tạ Vô Phong buông lơi bàn tay Lệ Ân Đình, tiến đến gần bên bia mộ của Tạ Sâm, quỳ xuống nói:

- Sư phụ, từ nay thiên lý vạn hành, con không thể sớm tối tới cúng bái người nhưng nơi đất khách, Vô Phong sẽ không quên ngày giỗ của người. Người hãy phù hộ cho con và tiểu sư muội có thể thuận buồm xuôi gió, thuận lợi gặp được Chu trang chủ.

Đoạn thì quay lại nói với Lệ Ân Đình:

- Chúng ta đi thôi!

- Được!

* * *

- Lục soát thật kỹ cho ta!

Trần Lăng đứng trước căn nhà gỗ không một bóng người, trong chất giọng đã có đôi phần gấp gáp. Thuộc hạ vừa vào lại chạy ra ngay:

- Trần tổng quản, không có ai cả.

Ánh mắt tối sầm, Trần Lăng nhìn ngó xung quanh, nghe thoảng mùi nhang khói, hắn phi ngựa theo đó đến thẳng đến bìa rừng sau căn nhà gỗ.

Đứng lặng người trước tấm bia mộ được viết bằng máu hãy còn tươi mới, thứ Trần Lăng kích động không phải tên người chết mà là dòng chữ nhỏ phía dưới "Tạ Vô Phong chi mộ".

- Tạ Vô Phong? Tạ Sâm, ngươi tính toán cả đời lại không bằng ta chỉ một khoảnh khắc thời cơ. Đứa con trai này của ngươi có phải là thật thà quá rồi không.

Tại một quán trà nhỏ cách thảo nguyên Hoàng Hoa không xa lắm, Lệ Ân Đình vừa uống trà vừa trầm ngâm suy nghĩ. Được một lát thì không nhịn được mà hỏi:

- Sư huynh, muội không hiểu một chuyện. Cứ nghĩ mãi vẫn không ra.

Tạ Vô Phong thản nhiên như thể đã biết trước chuyện này, cười nói:

- Từ nãy tới giờ, không ít hơn ba lần muội vốn định hỏi nhưng cuối cùng lại không hỏi, ta cũng sốt ruột thay muội rồi. Giờ thì sao, không nhịn được nữa rồi à?

Lệ Ân Đình đặt mạnh ly trà xuống bàn, giận dỗi:

- Này, nếu huynh đã biết vậy sao còn không nói. Để người ta suy nghĩ nhức cả đầu.

Tạ Vô Phong cười lớn:

- Haha, muội ngốc à? Ta chỉ biết muội có điều muốn hỏi chứ làm sao ta biết muội muốn hỏi gì mà chủ động nói chứ.

Lệ Ân Đình đưa mắt trông qua biểu hiện có vẻ chân thật của Tạ Vô Phong thì cũng phần nào nguôi giận, nàng ngồi xuống hỏi nhỏ:

- Sư huynh, muội không hiểu. Rõ ràng trước khi sư phụ ra đi đã căn dặn huynh, đường tới Trung Nguyên khó khăn nguy hiểm, tuyệt đối không thể để lộ thân phận. Vậy tại sao trên bia mộ của người huynh lại để dòng chữ "Tạ Vô Phong chi mộ"?

Mỉm cười nhìn Lệ Ân Đình, Tạ Vô Phong ôn nhu nói:

- Ân Đình, sau này huynh muội chúng ta sẽ cùng nhau đồng cam cộng khổ. Huynh sẽ không giấu muội dù là bất cứ chuyện gì.

Chưa kịp vui mừng, Lệ Ân Đình nhận ngay một câu nói khiến nàng chỉ muốn lập tức đem chàng đi ngũ mã phanh thây:

- Nhưng chuyện này thì đừng hòng, muội giỏi thì tự mà nghĩ đi.

Nàng tức giận, lớn tiếng:

- Tên mắc gió chết bầm này, huynh chán sống rồi đúng không? Dám trêu ta hả?

Tạ Vô Phong cười lớn, hai tay giữ lấy Lệ Ân Đình, phân bua:

- Thôi thôi thôi, được rồi. Ta đùa muội đó, chuyện này.. là ta cố tình làm vậy.

Lệ Ân Đình đã thôi huyên náo, nàng đăm chiêu nhìn Tạ Vô Phong. Miệng chàng mở không quá nửa, chậm rãi nói:

- Bấy lâu ẩn danh, chúng ta không biết được ngoài kia có những gì đang chờ đợi. Địch trong tối, ta ngoài sáng. Lần đó, đám người tới tìm sư phụ rõ ràng là vì ngọc Kỳ Lân mà đến. Họ sẽ bỏ qua khi chưa có được thứ họ muốn sao? Không đâu, họ nhất định sẽ quay lại. Ta là cố tình để lại dòng chữ đó trên bia mộ, vì nếu hắn đọc được, chắc chắn sẽ cho rằng sư phụ đã giao lại ngọc Kỳ Lân cho con trai người là Tạ Vô Phong.

Lệ Ân Đình ngạc nhiên, liền lập tức hỏi lại:

- Vậy há chẳng phải là chúng ta đã tự tạo phiền phức cho mình sao?

Tạ Vô Phong lắc đầu, nói:

- Ta lại nghĩ khác. Hắn là người đầu tiên ta muốn tìm, cũng là người duy nhất mà ta có thể truy lần ra kẻ đứng sau, lão chủ của Thiết Y Vệ Thành Phá Lãng. Nếu như chúng ta không có cách nào tiếp cận bọn quyền vương thế phụ đó vậy thì chỉ còn cách bắt buộc chúng phải chủ động tìm đến chúng ta.

Lệ Ân Đình cảm giác được một chút lo lắng bất an. Nàng vui vì sư huynh của nàng đã trưởng thành, chính chắn hơn so với trước kia rất nhiều. Nhưng lại không khỏi suy tư vì ánh mắt chàng thiếu niên đó bây giờ đã không còn ngây thơ, vô ưu vô lo, Tạ Vô Phong hào sảng với tính cách ngông cuồng, hoang dại của ngày ấy đã không còn nữa.

Một nụ cười nửa miệng hiện lên trên gương mặt tiêu soái, Tạ Vô Phong ngoái đầu nhìn về chân trời đại mạc, gác lại sau lưng quá khứ mười bảy năm. Cầm chắc ngọc bội trong tay, chàng đưa ánh mắt kiên định hướng về Trung Nguyên xa xôi: "U Linh sơn trang, sẽ là nơi ta bắt đầu tất cả".

Bước đến gần bên Yên Vũ, Tạ Vô Phong âu yếm vuốt ve bộ lông mượt mà, thì thầm vào tai nó:

- Đi thôi, chúng ta.. về nhà!

* * *

U Linh sơn trang.

Giáp với Mông Cổ rộng lớn là đoạn Thiên Sơn, nơi đại quân Mạc Bắc đặt doanh trại. Cách mười dặm về phía Đông đoạn Thiên Sơn chính là Liên Nhân trại. Nơi trung lập giữa triều đình và phản triều đình. Con rễ của trại chủ Liên Nhân trại chính là Trang chủ của U Linh sơn trang Chu Đình Uý.

Phía Tây ngoài thành Đại Đô có một ngọn núi lớn, hùng khí và hiên ngang, sánh tầm mây, cản chiều gió. Đó là đỉnh Phong Vân.

Từ Liên Nhân trại đi về phía Nam đỉnh Phong Vân, bên cạnh chân núi là năm dặm tùng lâm, lối vào duy nhất của U Linh sơn trang. Dày đặt và âm u, bao phủ nơi đây trong vòng mây bán nguyệt, đẹp lạ lùng về đêm, ảo diệu và say đắm. Cuối khu rừng ma mị như mê cung đó là biệt viện rộng lớn với màu đen chủ đạo, điểm xuyến vài đường dọc thiên màu vàng, cánh cửa lớn của sơn trang là văn tự phát nghiêng được khắc màu vàng nổi bật trên nền đen gỗ tùng quý hiếm thọ mấy chục năm: U Linh.

Trang viện của sơn trang tráng lệ và xa hoa không kém gì hoàng cung hay phủ đệ. Chỉ khác là người ở đây học võ để phòng thân và tuyệt nhiên không màng danh lợi. Thế nhưng, đó không phải là tất cả, U Linh sơn trang bí hiểm và khó lường như chính cái tên của nó.

Giữa màn đêm tĩnh mịch, không trăng chiếu, không sao sáng, trời đêm Mạc Bắc lạnh buốt đến vô cùng. Gió bên ngoài không thổi nhưng nến trong phòng lại tự tắt, nỗi lo trong lòng không ai thấy nhưng mày châu trên mặt lại bộc lộ đường hoàng.

Bàn tay đặt nhẹ lên bình thuốc nhỏ gần cạnh quyển sách đã cũ. Cánh cửa mật thất hé mở, bí mật tới nỗi chỉ đủ một thân người nép nghiêng. Bên trong không chút ánh sáng, cũng chẳng có cửa sổ. Người đó lấy mồi lửa từ tay áo thắp sáng ngọn đèn nhỏ bên trong căn phòng. Ánh sáng không nhiều, chỉ đủ thấy một phần gương mặt. Chân mày rậm, mắt đen sâu, mũi cao, khuôn mặt đầy góc cạnh, đúng chuẩn tướng mạo của một người luyện võ. Người đó là trang chủ của U Linh sơn trang, Chu Đình Úy. Kể từ lần cuối cùng đến Đại Đô, đã mười bảy năm ông chưa chưa từng rời Mạc Bắc.

Lấy từ cổ áo sợi dây chuyền có mặt cẩm thạch lớn. Ông tách hai mặt rời nhau, lấy ra một chiếc chìa khóa nhỏ, bước lại gần bức tranh thủy mặc đồ họa đỉnh Phong Vân, nhấn nhẹ viên đá trên tường, lộ một khe trống, ông lấy ra từ đó chiếc hộp màu đen kích thước tầm bằng nghiêng mực.

Mở khóa, bật nắp hộp, nhắm mắt, nén đau thương. Thật ra, Chu Đình Úy cũng không thường xuyên mở chiếc hộp này, chỉ là lần nào mở cũng lấy đi của ông những mảnh vỡ từ tim, lòng vẫn đau đáu nỗi nhớ nhung về cố nhân.

Ánh sáng le lói từ ngọn nến sắp tàn phản chiếu lên tường hình ảnh món đồ trong chiếc hộp. Hình tròn nhưng lại không tròn, nhìn có lỗ trống nhưng kì thực lại rất kín kẽ. Miếng ngọc bội là hình ảnh của thanh long ôm trọn kỳ lân hỏa. Điểm đặc biệt của nó chính là độc nhãn của Thanh long và Kỳ lân hỏa, nhưng đáng tiếc, nếu không được nhìn trực diện thì không thể nào thấy được toàn thể kết cấu của nó. Quả là một miếng ngọc đẹp.

Mở đôi mắt trông có chút mệt mỏi, hai hàng chân mày nhíu lại rồi dãn ra, nếp nhăn cũng tự nhiên hiện rõ. Miệng người đó nói vài câu khe khẽ:

- Đại ca, nếu ngày đó đệ cùng huynh quay lại Đại Đô, thảm án có lẽ sẽ không xảy ra. Bao năm qua, đệ không ngừng cho người dò la tin tức của Phong nhi, nhưng.. Đệ thật hổ thẹn với lời thề năm xưa lúc kết bái.

Mưa rơi càng lúc càng nặng hạt, đánh vào cửa sổ phòng ngoài mật thất những tiếng đáng sợ. Kể từ ngày đó, với ông tiếng mưa cũng như tiếng lòng, khóc mãi không thôi. Ông ngước nhìn bầu trời đêm qua lỗ hổng có chắn kính trên trần mật thất, cảm thán:

- Mưa đêm tối nay lớn như mưa đêm năm đó, chỉ khác là đệ còn đây, huynh lại ngủ một giấc dài..

* * *

Mây đêm đen kịt, mưa như trút nước, ồ ạt cuốn trôi từng lớp lá rụng chảy mãi về con sông lớn cạnh đỉnh Phong Vân. Có một người phi tuấn mã không kịp dừng chân, tranh thủ lúc trời mưa vắng người qua lại nhanh chóng đến nơi cần đến.

Vó ngựa bay làm cho nước mưa vung vãi, âm thanh nghe buốt lạnh thê lương. Hoàng bào trên người ướt sủng, cả người cả ngựa bay thẳng màn mưa đối đầu mê cung tùng lâm tìm đến U Linh.

Dừng chân trước cửa lớn của sơn trang vào một đêm mưa gió. Người đó bước xuống ngựa, tiến đến nấc thang đầu tiên thì chưa cần bước tiếp đã thấy một người khác chạy ra tiếp đón:

- Đại ca, sao huynh lại đến giờ này?

Trương Nhất Sơn gấp gáp, hơi thở nhanh chậm không đều:

- Nhị đệ, ta có chuyện quan trọng cần đệ giúp.

Chu Đình Úy thay xong y phục cho Trương Nhất Sơn liền bảo y lại ghế ngồi, bản thân thì rót trà đưa y, nhẹ giọng nói:

- Huynh uống chút trà nóng cho ấm người, đệ ra ngoài đóng cửa đã. Có chuyện gì quan trọng và gấp gáp đến nỗi huynh phải đích thân đến đây vào đêm khuya thế này? Ngoài trời mưa lớn như vậy, lỡ huynh mà bệnh thì tẩu tẩu và điệt nhi phải làm sao? Đại ca, sao huynh không biết thương bản thân gì cả vậy.

Chu Đình Úy tướng mạo đường hoàng, mày rậm, trán cao, thiếu trang chủ của U Linh sơn trang nổi danh là người tài đức vẹn toàn. Trương Nhất Sơn, Bình Dương vương gia của phủ Bình Dương hào khí can trường, xuất chúng hơn người, một thân cao quý. Chàng đang cầm trong tay chiếc hộp nhỏ, trong hộp có một miếng ngọc bội. Thở dài đầy ưu tư, Trương Nhất Sơn đứng dậy đi đi lại lại, có vẻ khá lo lắng, đoạn thì đưa chiếc hộp cho Chu Đình Úy, nói:

- Đây là ngọc Kỳ Lân.

Chu Đình Úy giật mình, lập tức mở chiếc hộp ra và rồi không khỏi bàng hoàng:

- Thật.. thật là ngọc Kỳ Lân? Đại ca, sao ngọc Kỳ Lân lại ở trong tay huynh?

Trương Nhất Sơn thấp giọng:

- Đó là quà mà Hoàng đế đã tặng cho ta và tẩu tẩu của đệ trong ngày đại hôn.

Rồi theo đó mà nói tiếp:

- Nhị đệ, U Linh sơn trang tuy không liên hệ với bên ngoài nhưng lại vô cùng gần Mông Cổ, Ba Tư và Nữ Chân. Đệ có từng nghe nói tới ngọc Kỳ Lân bao giờ chưa?

Chu Đình Úy lắc đầu, nói:

- Đệ chưa từng nghe qua cũng không biết gì về nó. Đệ chỉ biết có một truyền thuyết về quang định thiên, chuyện này không biết có liên quan tới ngọc Kỳ Lân không?

Trương Nhất Sơn suy tư, nói:

- Ngọc Kỳ Lân không sáng như ngọc bình thường, nó cũng không nhẵn mịn, không cầu kỳ, không kiểu cách. Điểm đặc biệt của nó chính là tả nhãn Thanh long và hữu nhãn Kỳ lân hỏa.

Nhíu mày tỏ ý không hiểu, Chu Đình Úy hỏi lại:

- Đại ca, điều đó có gì đặc biệt sao?

Mỉm cười, Trương Nhất Sơn hỏi Chu Đình Úy:

- Vậy đệ có biết nếu tả hữu nhãn đồng loạt mở thì sẽ thế nào không?

Đã bắt đầu có chút hứng thú, tuy nhiên Chu Đình Úy vẫn giữ sự bình tĩnh, tay rót thêm một ly trà cho Trương Nhất Sơn rồi nói:

- Cái này thì đệ khẳng định là không biết. Nhưng với câu chuyện huynh kể và lời đệ nói trước đó thì hẳn là phải có liên quan tới quang định thiên.

Gật đầu đồng ý, Trương Nhất Sơn nhấp chén trà nóng, cười nói:

- Không sai, tả hữu nhãn đồng loạt sáng chỉ khi đủ điều kiện mà Gia Cát tiên sinh đã phát hiện từ ánh sáng của quang định thiên.

Hai hàng long mày lại tiếp tục dính vào nhau, tay cầm chén trà xoay tới lui ba bận, Chu Đình Úy hỏi:

- Đại ca, người huynh nói đến có phải là quốc sư tiền triều của Ba Tư, Gia Cát Chính Ngã không?

Hiểu biết nhiều là Vạn Thần Thông nhưng hiểu biết sâu xa lại là Chu Đình Úy. Trương Nhất Sơn gật đầu cười nói:

- Đúng vậy. Ngài ấy có công khai quốc, được phong làm quốc sư, đức cao vọng trọng. Năm đó, trong một lần dạo đoạn Thiên Sơn, ngắm nhìn đỉnh Phong Vân và bầu trời Mạc Bắc. Gia Cát tiên sinh đã vô tình nhìn thấy một ánh sáng nhất tâm chỉ đúng vào người tiểu thế tử. Sau đó, ông đã thỉnh giáo qua sư phụ mình mới biết thì ra tia sáng lúc đó không phải khi nắng mới thấy, lúc mưa thì mất mà là nó mặc định sẵn cho người mang chân mệnh thiên tử. Qua mấy chục năm, Ba Tư vẫn dồi dào hưng thịnh, ông vì không muốn người đời sau phải chọn lầm thiên tử, hại cực bách tính, làm khổ chúng sinh nên đã quyết định mài mò sử sách, cuối cùng đã tìm được cách đưa quang định thiên vào trong độc nhãn của hai thần thú mạnh nhất nhì trên dưới trời đất. Đó là Rồng và Kỳ lân.

Chu Đình Úy ngộ ra vài điều, hai mắt sáng hẳn ra, nói:

- Thì ra, thật sự có chuyện đó. Trước đây khi nghe qua, đệ còn cho rằng nó quá ảo diệu, không thể nào là thật.

Trương Nhất Sơn mỉm cười, tiếp tục:

- Điều bí ẩn của ngọc Kỳ Lân nằm ở tả hữu nhãn của Thanh long và Kỳ lân hỏa. Ngọc Kỳ Lân chỉ thật sự sống khi mắt của cả hai thần thú mở cùng lúc.

Không kịp đợi câu chuyện, Chu Đình Úy hấp tấp:

- Đại ca, vậy là thứ gì mới có thể khiến tả hữu nhãn đồng loạt mở?

Trương Nhất Sơn lắc đầu rồi nói:

- Không dễ, cần phải có ba thứ quan trọng. Một là thiên thời, vào đúng đêm trăng tròn thủy triều lên cao nhất. Hai là địa lợi, vật chứa khớp với ngọc Kỳ Lân, bản thân ta còn chưa rõ vật đó là gì. Ba là nhân hòa, cũng là thứ quan trọng nhất. Đó là người mang dòng máu đế vương, được quang định thiên lựa chọn. Dùng máu của người đó nhỏ vào ngọc Kỳ Lân đã được đặt khớp chỗ vào đúng đêm trăng tròn, tả hữu nhãn sẽ đồng loạt mở. Khi đó, bí ẩn lớn nhất của ngọc Kỳ Lân về tông mạch của vương thất Nguyên triều sẽ được hé lộ.

Chu Đình Úy nhận ra mấu chốt của vấn đề liền lên tiếng hỏi:

- Vậy người mang dòng máu đế vương đó là ai? Không phải là Hoàng đế đang tại vị kia sao?

Trương Nhất Sơn lắc đầu, nói:

- Người đó, cả ta và đệ đều quen biết.

Chu Đình Úy nghe xong cái tên được nói ra từ miệng Trương Nhất Sơn thì liền biết được, việc được nhờ cậy ngày hôm nay hoàn toàn có thể dẫn đến họa diệt vong cho sơn trang, nhưng vì tình huynh đệ, lời hứa này chàng bắt buộc phải hứa và thực hiện nó.

Tiếng mưa bên ngoài làm se thắt lòng hai quân tử. Thế cục trước mắt quả là lành dữ khó lường. Trong ánh đèn le lói của màn đêm u tối, ánh mắt kinh ngạc của Chu Đình Úy cùng gương mặt thất thần của cả chàng và Trương Nhất Sơn đã đủ chứng minh, thân phận người có quang định thiên hẳn là không tầm thường.

Người đó đúng là người mà cả hai người họ đều quen biết.

* * *

Bầu trời đêm Mạc Bắc đầy sao, trăng sáng soi bóng tùng lâm, đỉnh Phong Vân nghiêng mình hữu tình bên đoạn Thiên Sơn hùng khí, U Linh sơn trang tĩnh lặng, cô đơn. Chỉ có mỗi Chu Đình Úy một mình ôm nỗi đau quá khứ cùng sự nhớ nhung người xưa, cũng chỉ có mỗi ông biết, mười bảy năm trước rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Thêm một năm nữa qua đi, Chu Đình Úy cảm thấy sự chờ đợi của bản thân thật khổ sở, cô đơn. Mười bảy năm trước, thứ ông mất đi đâu phải chỉ đơn giản là một nghĩa huynh tình như ruột thịt..