Chương 116: Một thế giới rộng lớn 2

Cảm ơn Thư Trạch, vYJMw02016 và Nguyễn Thiên đề cử!

Cảm ơn Nguyễn Thiên tặng quà!

Cảm ơn Thự Trạch đánh giá truyện!

Cảm ơn temple of world đánh giá truyện!

“Baba yetu, yetu uliye

Mbinguni yetu, yetu, amina

Baba yetu, yetu, uliye

Jina lako litukuzwe

….”

- Lời bài hát Baba Yetu của Christopher Tin, ca khúc gắn liền với tựa game Sid Meier’s Civilization IV và theo tác, một người chơi, nó để lại ấn tượng sâu sắc hơn cả con game.

(P/s: Nghe bài này hơn 10 năm, đến tận hơn 1 năm trước thì tác mới biết nó là Lord’s Prayer trong tiếng Swahili, ngôn ngữ phổ biến ở khu vực trung đông Châu Phi.

Nói vậy chỉ để nêu ra quan điểm rằng cho dù bạn không theo đạo Chúa và không hiểu lời thì bài hát này vẫn có thể gây nghiện,

Vậy nên chống chỉ định vừa đọc vừa nghe, cảnh báo rồi đấy nhé!)

- -----------

Khi Hoàng Hùng chìm vào trầm tư suy nghĩ cũng là lúc một thính giả của cuộc trò chuyện trở nên căng thẳng đến nổi không nhận ra rằng thức quà giòn tan thơm ngon hiếm có trong đời vừa mới bị tước đoạt.

Ánh trăng phủ lên bụi cây um tùm, vài tiếng động loạt xoạt vang lên, một thân hình chỉ bằng bằng nắm tay thoắt ẩn thoắt hiện trong làn cỏ xanh mượt, hướng về phía nguồn sáng rồi nhanh chân cuỗm mất một mẫu bánh nướng để hớ hênh.

Giờ Tý đã vào sâu.

(P/s: sau nửa đêm, giờ tý = 11h đêm đến 1h sáng)

Ở hướng khu ký túc dành cho cải tạo sinh xa xa, nếu như mắt còn chưa mờ đi vì ngái ngủ thì hẵn có thể nhận ra được một thân hình cao lớn như gấu mẹ vĩ đại đang bước đi chầm chậm, đấy hiển nhiên không phải mãnh thú hay quái nhân mà là Asiana đang vác trên vai một chàng Bard, người đã bất tỉnh nhân sự do chè chén quá độ.

Rời đi cùng lúc với Asiana, nàng trưởng trại Lê Phi Yến đã sớm mất hút từ bao giờ sau khúc quanh co dẫn vào khu ký túc dành cho công nhân viên của trại, nếu Asiana đi đủ chậm thì trước khi về đến ký túc của mình có lẽ nàng sẽ gặp lại Lê Phi Yến với mấy tấm áo gió trên tay.

Về phần người duy nhất còn tỉnh táo và rãnh rỗi để ngồi lại bên đống lửa với Hoàng Hùng và Nguyễn Bảy cũng chỉ có Alexandre.

Nếu không hashtag ‘người’ thì phải tính thêm một bé tý nữa.

Bé vừa phát hiện lão con người kia đã đơ ra như tảng đá, vậy nên cũng chẵng ngần ngại gì mà không ở lại nếm thử thứ đồ ăn thơm ngon vừa lấy được thay vì vật vả tha chạy về tổ.

Nói đơ ra như đá thì hơi quá bởi Alexandre chỉ đang tập trung đợi nghe quyết định của Hoàng Hùng mà thôi, hoặc nói cho đúng là đang hy vọng rằng những âm sắc mà mình mong đợi sẽ là những âm sắc duy nhất sẽ đi vào tai mình.

Phải biết rằng từ khi bắt đầu câu chuyện thì Nguyễn Bảy và Hoàng Hùng vẫn giao tiếp với nhau bằng tiếng Bách Việt khiến cho gần như tất cả mọi người có mặt đều không hiểu rõ họ đang nói gì trừ Lê Phi Yến.

Nhưng kỳ thực còn có một ngoại lệ nữa là Alexandre, người có cơ duyên đồng hành và trao đổi tri thức với Nguyễn Bảy trong một thời gian dài.

Alexandre đã nghe người bạn đồng hành của mình kể về Thiên Trúc về Phật giáo, và ông cũng nắm giữ kha khá vốn tiếng Việt.

Vậy nên ông có thể hiểu được đại ý của đề xuất mà Nguyễn Bảy đang đặt ra cho vị lãnh tụ trẻ tuổi trước mặt gồm 2 sự lựa chọn, 2 con đường tách biệt với nhau, chọn này mất kia:

Hoặc là độc tôn một hệ tư tưởng riêng đặc hữu, để dễ dàng đạt được sự thống nhất và đoàn kết trong nội bộ quốc gia, nhưng cũng khó tránh khỏi việc bước vào lối mòn khi trước của vị Doanh Chính nào đó, mà theo Alexandre tưởng tượng thì hẵn là một bạo quân tương tự như những đại đế Roma hiện giờ.

Hoặc là bao dung nhiều hệ tư tưởng mới khác biệt, bước lên một con đường chông gai đầy bẫy rập và nguy cơ bốn phía, hòng chờ đợi sự đa dạng có thể đơm hoa kết trái thơm lành dài lâu mà tiêu biểu có thể thấy trước mắt là cơ hội tăng cường mối quan hệ bang giao hòa hảo với vương triều Satavahana cường thịnh ở Thiên Trúc.

Mặc dù là một con chiên trung thành của Thiên Chúa, vững tin chắc chắn rằng Ngài là Đấng Toàn Năng tối cao và duy nhất, nhưng Alexandre lại hy vọng vị lãnh tụ trẻ tuổi trước mặt có thể đồng ý cho phép Phật giáo Thiên Trúc du nhập vào Đại Nam, thậm chí nếu có thể chân thành khuyến khích hỗ trợ thì càng tốt.

Đó là vì theo quan niệm của Alexandre, nếu đã có thể mở rộng lòng với 1 tôn giáo mới thì hoàn toàn có thể tiếp nạp tôn giáo thứ 2, 3, 4, thậm chí nhiều nhiều hơn nữa.

Không thể phủ nhận rằng khoảng cách địa lý chính là bức tường lớn nhất ngăn trở những con chiên của Thiên Chúa ở trời Tây đến với mãnh đất tươi đẹp Đại Nam này.

Alexandre biết rằng mình có thể đến được đây ngoài trừ nhờ vào chỉ dẫn của Thiên Chúa trên cao thì thực tế cũng không thể tách rời sự giúp đỡ của những bạn đồng hành quả cảm tài năng là Nguyễn Bảy và Asiana, và đôi lúc là cả Bard, người có thể nghêu ngao ca hát trong mọi hoàn cảnh.

Vậy nên dù đã quyết tâm nhận lãnh nhiệm vụ khó khăn mà Thiên Chúa giao phó nhưng Alexandre cũng không dám chắc rằng nó có thể được hoàn thành trong đời mình, có lẽ phải đến mấy chục năm, thậm chí mấy đời sau thì tin lành của Thiên Chúa mới có thể thực sự được vang lên trên xứ sở gọi là Đại Nam này.

Mà nếu thật sự phải tiêu tốn nhiều thời gian như vậy thì khó mà nói được rằng ông có còn ở đây để được chứng kiến bằng mắt trần hay đã về với Thiên Chúa và ngó xuống từ Thiên Đường.

Hiểu được việc này nên thay vì cầu cạnh làm thân, tạo mối quan hệ tốt đẹp và cầu xin thương hại, mong mỏi vị lãnh tụ trẻ tuổi có thể ra sức hỗ trợ Thiên Chúa giáo,

Thì Alexandre lại đang trông chờ vào việc Đại Nam có thể trở thành một xã hội bao dung rộng rãi với tất cả mọi hệ tư tưởng mới.

Nếu được như vậy thì Alexandre tin chắc rằng mặc cho thời gian đổi dời, bất kể những tín hữu khốn khổ ở trời Tây tốn bao nhiêu năm tháng để đến được Đại Nam, thì họ cũng sẽ được chào đón nhiệt thành với lòng rộng lượng và hiếu khách như những gì ông đang được trãi nghiệm.

Ngược lại, nếu như đất và người Đại Nam bài xích hoặc chèn ép Phật giáo Thiên Trúc thì khó mà trông chờ vào một tương lai tốt đẹp cho các tín hữu của ông tại nơi này.

Cũng bởi vậy nên khi nhìn thấy vị lãnh tụ trẻ tuổi rơi vào trầm tư càng lâu thì tinh thần của Alexandre cũng càng trở nên căng cứng đến nổi có thể làm ngơ việc một bé tý đang tý sực phần bánh nướng của ông tại ngay bên cạnh ông.

Alexandre đang rơi vào một trạng thái tâm lý cưỡng ép khiến tim đập nhanh và làm cho các giác quan trở nên căng thẳng, lúc này các giác quan gần như chỉ chịu tiếp nhận thứ mà bộ não muốn, nặng hơn thì thậm chí sẽ phủ định những thông tin khác dù rằng những thông tin kia là thực.

Nói cách khác là mở với bên trong mà đóng với bên ngoài.

Đôi mắt hơi lu vì tuổi tác của Alexandre chăm chú mở to mặc đêm thâu và gió lạnh, hướng trực diện về phía khuôn mặt trẻ trung nhưng không chút nào non nớt của vị lãnh tụ Đại Nam.

Khác với vẻ thèm ăn hiện lên rõ mồn một trong cặp mắt sáng tinh như ngọc của sinh vật nhỏ bên cạnh, trong hai tròng mắt của Alexandre chất chứa một sự mong chờ lớn hơn cả thuyền biển.

Alexandre khá quen thuộc với các giống dưa vì trong trại Hoa Cải có trồng, nhưng ông chẵng từng được thấy quả dừa một lần nào trong suốt hơn 40 năm cuộc đời, và ông cũng chưa biết đến câu thành ngữ nổi tiếng của người Bách Việt phối hợp từ hai loại quả ấy.

Thế nhưng Alexandre biết rõ ràng rằng trong tình cảnh hiện tại thì ông không hề hy vọng tránh Roma lại gặp phải một Roma thứ 2.

Ông không muốn niềm tin vào sự chân thực của những giấc mơ về Thiên Chúa, thứ mà ông chỉ mới bắt đầu lấy lại gần 2 tháng nay, sẽ lần nữa trôi theo dòng sông thất vọng.

Và hơn hết, ông không muốn dòng sông nước mắt của anh chị em tín hữu sẽ tiếp tục chất chứa thêm càng nhiều đau khổ, thất vọng và biến chất.

Đúng vậy, là biến chất!

Trước khi Alexandre nắm lấy tay Nguyễn Bảy thoát ra khỏi ngục tù rồi lên đường theo chỉ dẫn của Thiên Chúa, thì ông cũng là một chức sắc cấp cao trong giáo hội, và ông biết rằng một số anh chị em tín hữu của ông đã bắt đầu có những tư tưởng luồn cúi lệch lạc.

Họ cho rằng có thể sửa đổi giáo điều sao cho phù hợp với nhu cầu của quý tộc Roma, ví như nâng đỡ hoàng quyền, ví như thiên mệnh hoàng đế, để hòng mong cầu sự ủng hộ của những nhà cầm quyền, hoặc ít nhất là giảm thiểu sự khắt khe của luật pháp Roma đối với Thiên Chúa giáo.

Mặc dù Alexandre cũng sở hữu nổi khổ tâm dằn xé như những người khác trong ban lãnh đạo của giáo hội khi cứ phải bất lực chứng kiến mãi cảnh tượng các anh chị em tín hữu bị xua đuổi, ganh ghét, hành hạ và đối xử thậm tệ hơn cả nô ɭệ,

Thế nhưng Alexandre vẫn luôn không đồng ý với sự lựa chọn của phái ‘ôn hòa’ mà theo ông là ‘biến chất’,

Bởi trong suy nghĩ của Alexandre thì thỏa hiệp một lần tức là sẽ quỳ gối được nhiều lần, lệch lạc một ly tức là rồi sẽ rời khỏi đường ngay thẳng, bán đi tôn chỉ giáo điều để mua sự bình yên trước mắt thì cũng đồng nghĩa với những đánh đổi to lớn không tưởng trong tương lai.

Nếu phải lựa chọn giữa cái chết hoặc sống sung sướиɠ với sự biến chất, suy đồi trong đức tin thì Alexandre thà rằng mình sẽ chết, cho dù đó là một cái chết đau đớn hèn mạt trong hầm ngục đầy giòi bọ gián chuột bẩn thỉu.

Ông thậm chí còn ước gì những tín hữu khác cũng sẽ lựa chọn giống mình mặc dù ông biết ông không có quyền quyết định thay họ.

Alexandre từng thú nhận rằng mình hơi cực đoan và đôi lúc quá mức lý trí, nhưng ông thà rằng ánh sáng của Thiên Chúa cứ thế len lỏi trong những khe hở của hầm ngục tối còn hơn là bị đồng hóa với cơ chế u ám ngự trị mặt đất phía trên hầm ngục.

Thế nhưng sau khi đến với vùng đất dưới sự lãnh đạo của Đại Nam Đồng Minh Hội này, được hưởng thụ ánh sáng của hy vọng và cảm nhận tình người ấm áp nơi đây, thì ý nghĩ cực đoan của Alexandre cũng dần tan vỡ.

Sinh vật có trí khôn thường như vậy, khi bị dồn tới đường cùng thì trở nên táo tợn và quả đoán, nhưng một khi nhìn thấy lựa chọn khác, con đường khác, hy vọng khác, thì tâm chí sẽ yếu mềm dần đi.

Giờ này khắc này, Alexandre mới thực sử hiểu hết được nổi lòng của những giáo chức thuộc phái ôn hòa khi quyết định đặt cược vào lòng bao dung của nhà cầm quyền.

Ông bổng cảm thấy có chút ngượng ngùng vì những lời lẽ có phần quá đáng của mình trước đây đối với các anh chị em thuộc phái ôn hòa bởi chính ông hiện giờ cũng đang trông chờ vào thanh niên trẻ tuổi trước mặt nhiều hơn là tin tưởng vào đức tin trong tim.

“Phải!

Thật buồn cười làm sao, khi ta ở nơi tăm tối nhất thì ta vẫn cầu mong Chúa đến bên ta.

Và khi ta nhìn thấy ánh sáng hy vọng trong tầm tay với thì ta lại dần đánh rơi niềm tin vào Chúa ở phía sau”

- Cảm ngộ ấy tạm thời giải thoát Alexandre khỏi trói buộc trong tư duy, ông bất chợt không còn chăm chú vào Hoàng Hùng nữa mà nhớ về miếng bánh thơm ngọt mình bỏ dỡ.

Thiên Chúa dạy ông không được lãng phí thức ăn.

Chỉ là khi quay sang tìm kiếm, ông lại bắt gặp một sinh vật hết sức quen thuộc.

Một con chuột.

Tuy nhiên, Alexandre có thể thấy rằng con chuột này khác với những đồng loại của nó trong những ngục tối ở phương Tây vạn dặm xa xôi.

Nó béo tốt hơn nhiều và sở hữu một bộ lông ngoài trông mượt mà như thảm nhung, có lẽ với một số người yêu động vật thì nó sẽ khá là dễ thương.

Càng quan trọng là thay vì phải chuôi rúc ẩn nấp trong cống rãnh, lặn lội giành giật sự sống giữa máu và bùn, để rồi nhiễm nặng mùi hôi hám và tanh tưởi,

Thì bé tý trước mặt Alexandre đang chăm chú hồn nhiên gặm ăn những mẫu bánh thơm lành, không hề phát hiện ra rằng chủ nhân của thứ đồ ăn siêu ngon này đã thoát khỏi thuật hóa đá và đang dõi theo mình.

Hình ảnh ấy hiện lên có chút ngây ngô,

Trên đôi môi khô nứt lam lũ đang dần trở nên tươi nhuận sau hai tháng sinh hoạt tại trại Hoa Cải của Alexandre đột nhiên hiển hiện một nụ cười thỏa mãn:

“Thuận theo tự nhiên đi”

Ông tin rằng Thiên Chúa vừa mới gửi cho ông một thông điệp đáng quý.

Và thế là Alexandre nhắm mắt lại rồi bắt đầu cầu nguyện bằng toàn bộ thân thể lẫn linh hồn, khối óc và trái tim, dùng ngôn ngữ mẹ đẽ của mình:

“Pater noster, qui es in caelis,

sanctificetur nomen tuum.

Adveniat regnum tuum.

Fiat voluntas tua,

sicut in caelo, et in terra.

Panem nostrum quotidianum da nobis hodie,

et dimitte nobis debita nostra,

sicut et nos dimittimus debitoribus nostris.

Et ne nos inducas in tentationem,

sed libera nos a malo.

Amen”

(P/s: Lord’s Prayer trong tiếng Latin, đừng hỏi tác, hỏi chính là nước chữ.

Xin đừng chê nước chữ bởi vì nước là quốc mà chữ thì cũng là ngữ.

Nước chữ chính là Quốc Ngữ)

Sự thành kính hiển hiện dưới ánh trăng vàng rực thu hút sự chú ý từ Hoàng Hùng, người vừa làm ra quyết định sau nhiều đắn đo suy tính.

Ngôn ngữ Latin không phải rất mới lạ, nếu không nói là phần lớn những âm sắc ấy vẫn còn in rõ dấu ấn của chúng trong trí nhớ của Hoàng Hùng.

Với thiên phú xuất chúng được thế giới ý chí ban tặng, đoạn thời gian trao đổi học hỏi với nhóm bạn Marco Polo dù đã lùi xa vào quá khứ nhưng lại chỉ như mới hôm qua với Hoàng Hùng.

Thế nhưng vấn đề là khi đem các từ ngữ nghe được ghép lại với nhau thì Hoàng Hùng lại cảm thấy có chút mơ hồ bởi vì rất hiển nhiên, nhóm bạn Marco Polo chưa từng nói ra những đoạn câu tương tự.

Nguyễn Bảy nãy giờ thong dong chêm củi giữ lửa nhưng kỳ thực cũng hết sức tập trung chờ đợi phản ứng của Hoàng Hùng, vậy nên hắn có thể lập tức nhận ra sự hiếu kỳ của công tử:

“Ấy là một bài kinh cầu nguyện của Thiên Chúa giáo.

Alexandre là một tín đồ …”

Từ những giải thích sơ lược của Nguyễn Bảy thì Hoàng Hùng được biết về tình hình của giáo chúng Thiên Chúa giáo tại phương tây, dưới sự quản chế hà khắc của chính quyền đế chế La Mã.

Trước đó Hoàng Hùng không hề nghĩ rằng đế quốc hùng mạnh văn minh trong những lời kể của nhóm bạn Marco Polo còn có những góc khuất hắc ám như vậy.

Không thể phủ nhận, thời gian tiếp xúc với nhóm Marco Polo của Hoàng Hùng kỳ thực cũng không dài, ngoại trừ một tháng rãnh rang ở Hà Sóc thì chỉ có giai đoạn bận bịu ngược xuôi tại Âu Lạc khi mà Hoàng Hùng gấp gáp với những kế hoạch liên quan tới vận mệnh non nước còn nhóm Marco Polo thì cũng tham gia lo toan chuẫn bị cho chuyến hải trình thám hiểm.

Nguyễn Bảy giải thích xong, lời kinh cầu cũng chẵng còn vang lên từ miệng Alexandre nữa, nhưng ông vẫn chưa mở mắt, theo Hoàng Hùng thì đó có lẽ là một dạng thiền định.

Với trí tuệ xuất chúng cùng kinh nghiệm lăn lộn hồi lâu trong chính trường, Hoàng Hùng có thể đoán ra tố cầu hiện thời của Alexandre và có lẽ là của rất nhiều ‘máu mới’, ‘tư tưởng mới’, ‘văn minh mới’ mà hắn và đồng bào sẽ gặp gỡ trong tương lai.

Khung cảnh lần nữa rơi vào trầm mặc cho đến khi 2 bóng hồng hiện lên trong mắt Nguyễn Bảy từ phía khu ký túc xa xa.

Bóng hồng trong tuổi thơ hắn xách theo một giỏ tre, không rõ ràng trong đó là gì bởi vì trước lúc rời đi thì nàng chỉ bảo rằng muốn lấy áo gió cho cả bọn, mà dưới ánh trăng ngà sáng tỏ thì Nguyễn Bảy có thể khẳng định rằng mấy chiếc áo gió kia đều đang nằm trên tay Asiana, người đi bên cạnh Lê Thị Dăm.

“Mọi người buồn ngủ chưa?

Nhân trần ấm đến đây!”

- Giọng nói êm dịu ấy như thổi vào gió đêm một chút hoạt bát, một chút ôn nhu nhưng cũng không phá vỡ sự tập trung đang ngưng tụ bên đống lửa.

Ra là nhân trần … khoan???

“Nhân trần?

Ở Trường Sa?”

- Tiếng cả kinh của Nguyễn Bảy mới thực sự là thứ đánh vỡ màn đêm, khiến Hoàng Hùng và Alexandre đều giật mình.

Hoàng Hùng nhanh chóng định thần, buồn cười nói:

“Cần thiết phải hoảng hồn thế không anh Bảy!?

Lĩnh Bắc Lĩnh Nam tuy cách núi nhưng khí hậu cũng có nhiều phần giống nhau.

Cải Tây Vực còn mang về đây trồng được thì nói gì đến nhân trần?”

Nói rồi hắn tự mình pha lấy 2 chén nhân trần, một cho chính hắn, một cho Alexandre.

Về phần Nguyễn Bảy thì xin lỗi, Hoàng Hùng không phải Thiên Thủ Quan Âm, hắn chỉ có 2 tay.

Vả lại anh em trong nhà thì thiếu gì dịp mời nhau, ngay cả Lê Phi Yến đều biết đạo hiếu khách, đang hướng dẫn Asiana thưởng thức nhân trần cho đúng gu Âu Lạc.

Bỏ qua người thừa thứ 5 trong đêm trăng sáng tỏ lòng ta, khi hớp nhân trần trôi qua cổ họng vào sâu trong ruột thì tiếng cười tiếng nói cũng đẩy vỡ đê ngăn.

Không còn rào cản văn hóa ngôn ngữ lẫn rào cản tầng lớp tri thức, những điều dịu kỳ mới lạ, văn minh lẫn u ám, tân tiến đặc sắc lẫn cổ hủ tầm thường, rộng lớn vĩ đại mà cũng có chổ nhỏ nhen xấu xí của thế giới này được đem ra trình bày dưới sự chứng kiến của ánh trăng rằm sáng trong.

Không phải để bình để luận hay để chê để trách, cũng không vì để phân tách, giải thích nọ kia.

Còn quá sớm cho những giai đoạn đó.

Đơn giản là để biết nhau là ai và tới từ đâu, biết thế giới này sao mà vĩ đại, biết trời cao đất rộng vũ trụ muôn màu, thế thôi!

Với Hoàng Hùng thì đó là những ‘miền trời’ xa xăm, nơi mà những ‘đoàn thương thuyền xuất phát từ cảng Vân Đồn’ còn đang chờ cập bến,

Từ đó để biết rằng còn nhiều điều để học hỏi thêm, trau dồi thêm, tiếp nạp thêm, mở rộng thêm, đào sâu thêm, để phát triễn nhanh mạnh và quan trọng nhất là phát triễn đúng.

Với Alexandre thì đó là sự khắc họa lại của bức tranh mang tên ‘miền đất hứa’ một cách phàm trần hơn, sát thực tế hơn, loại bỏ đi những mơ mộng hảo huyền nhưng cũng cập nhật thêm nhiều chi tiết thời sự đáng quý,

Nhờ đó mà ông có thể vạch ra một kế hoạch rõ ràng cho nhiệm vụ trong tim thay vì chỉ nhồi nhét vào người những cục hy vọng, tảng quyết tâm nặng nề mà thiếu khuyết ích lợi thực tế.

Chuột ăn no căng vác bụng béo về hang, trâu bò tới hẹn lại ợ lên nhai lại, trên mõm núi cao hổ đang chờ tắm nắng.

Trên nóc tháp chuông báo sớm, một cô mèo đã thấy ánh sáng bình minh mọc lên từ hướng hướng biển.

Có lẽ không phải tự nhiên mà màu xanh dương của nước biển lại là màu hy vọng trong tiềm thức người Việt.

Có lẽ tổ tiên muốn nhắc ta nhớ rằng mặt trời vẫn hằng ngày đều đặn ngàn thu không nghỉ nhô lên sưởi ấm và cung cấp hy vọng sống cho vạn vật sinh linh trên cõi đời.

Hy vọng vẫn luôn thường trực, không cần phải níu kéo giữ lấy cho riêng mình, vậy đấy!

Giờ thì Alexandre cũng đã hiểu vì sao màu áo của tất cả nhân viên trong trại Hoa Cải, từ lao công vệ sinh, hướng dẫn kỹ thuật đến hỗ trợ viên và quản lý cập cao như Lê Phi Yến đều là màu xanh.

[Vui lòng đặt tên cho hệ thống!]

"Tên cái gì? Phiền bỏ mẹ."

[Đinh!]

[Đã cập nhật tên. Phiền Bỏ Mẹ ra mắt túc chủ.]

"Gì? Tao bảo là mày phiền bỏ mẹ, không phải tên Phiền Bỏ Mẹ!!"