Trong hành lang cũng không có thang máy, Khương Hòa Tông đi theo Thẩm Bồi leo năm tầng đến tầng trên cùng, tầng năm chỉ có một nhà, đối diện là sân thượng bị cánh cửa rỉ sét khóa chặt.
Thẩm Bồi lấy chìa khóa mở cửa, giơ tay bật đèn trong phòng lên.
Có lẽ bóng đèn hơi nghịch ngợm, nhấp nháy mấy cái mới sáng hẳn, căn phòng chỉ cần liếc nhìn là thấy rõ mồn một, chẳng phải do đèn sáng đến mức nào, mà do trong phòng chật hẹp, cũng không chia thành mấy phòng mấy sảnh, chỉ ngăn nhà vệ sinh ra, một người đứng vào đã thấy chật. Bên dưới cửa sổ là kệ bếp, ngoài này một chút thì đặt một chiếc bàn vuông nhỏ và hai cái ghế, tủ lạnh nằm trong góc, cảm giác mở cửa cũng phải lùi lại vài bước mới mở được.
Thực tế chứng minh đúng là như vậy, Thẩm Bồi mở cửa tủ lạnh xong phải lùi lại một bước mới lách vào từ khoảng hẹp giữa cửa và cái bàn, vươn tay lựa tới lựa lui bên trong, chốc thì lấy một nắm cải thìa bỏ lên bàn, chốc thì lôi ra vài trái bắp.
“Ở đây không đặt sofa được, cậu lên giường ngồi một chút đi, tôi nấu đồ ăn khuya.” Thẩm Bồi chỉ chiếc giường đơn sát vách tường bên kia: “Nếu cậu đói thì ngăn kéo đầu giường có đồ ăn đó, cậu chọn cái nào dịu nhẹ lót dạ trước đi.”
Khương Hòa Tông trả lời “Được”, nhìn tài liệu ôn tập ngổn ngang trên giường cùng đống quần áo cuối giường, âm thầm kéo cái chăn sắp rớt xuống đất lên, có chút không biết ngồi chỗ nào thì được.
Dường như Thẩm Bồi đột nhiên ý thức được giường mình bừa bộn như ổ chó, tay chưa lau khô đã bay qua, gom đống tài liệu ôn tập qua một bên, đang định tiện tay nhét cái chăn vào góc giường thì Khương Hòa Tông giơ tay nắm cổ tay cậu, có chút bất đắc dĩ nói: “Để tôi dọn cho.”
Thẩm Bồi biết Khương Hòa Tông mắc bệnh sạch sẽ và chứng ám ảnh cưỡng chế nên cũng không khách sáo, cười hì hì, vứt lại một câu “Cảm ơn”, rồi quay lại kệ bếp đảo đồ ăn.
Khương Hòa Tông gấp chăn xong sẵn tiện muốn dọn đống quần áo luôn, ngẩng đầu thấy sợi dây thừng mắc phía trên, hai đầu dây cột vào cây đinh trên tường, có lẽ dùng để phơi quần áo. Anh quay đầu hỏi Thẩm Bồi móc quần áo để ở đâu, Thẩm Bồi đang thái rau không nghe rõ, lớn tiếng nói: “Cậu nói gì?”
Khương Hòa Tông bước tới hai bước đang định hỏi lại thì thấy Thẩm Bồi bận trước bận sau, vừa cho bắp vào hầm đã quay qua thái rau lạch cạch, thỉnh thoảng còn phải xem lửa có lớn quá không, có cần cho thêm nước không, một người bận rộn mà nhìn như cả nhóm đang bận.
Thẩm Bồi làm nhiều việc cùng lúc nhưng vẫn luôn chú ý đến Khương Hòa Tông, thấy anh không nói nữa thì quay đầu hỏi lại vừa nãy anh hỏi gì.
Khương Hòa Tông thấy hơi ngẩn ngơ, nhất thời không trả lời.
Náo nhiệt một hồi như thế hệt như gia đình.
Khương Hòa Tông nhớ lại hồi vẫn chưa có chuyện gì xảy ra, ngày tháng nào cũng như thế này, tưng bừng mỗi ngày, rồi lại bình yên an ổn, ấm áp như một giấc mơ.
Con người Thẩm Bồi rất kỳ lạ, sau khi gặp cậu, Khương Hòa Tông cứ nhớ hoài về những thứ đã lâu, tháng ngày tươi sáng mà dịu êm, bởi vì đã lâu chưa gặp, lúc đột nhiên sa vào sẽ hốt hoảng đến nỗi không biết làm sao, sợ đứng gần một chút giơ tay chạm vào sẽ nhanh chóng tỉnh lại, nhưng vẫn không nhịn được mà muốn đến gần hơn.
Khương Hòa Tông hít sâu một hơi ổn định lại cảm xúc, giữ giọng điệu bình thản hỏi lại móc áo để ở đâu.
Thẩm Bồi vung bàn tay mỏi vì thái rau trả lời: “Bên dưới quần áo, bới thử xem chắc là tìm được đó – À mà cái đó không cần dọn gấp đâu, tôi bận đến nỗi sắp phân thân luôn rồi, phụ tôi một tay đi bạn cùng bàn.”
Khương Hòa Tông nói được rồi đi đến bên cạnh Thẩm Bồi.
Thẩm Bồi chẳng ngẩng đầu, nhét cho anh hai cọng hành: “Rửa rồi thái ra nha.”
Khương Hòa Tông mở nước rừa hành, thuận miệng nói: “Không phải cậu không ăn hành à?”
Thẩm Bồi lấy bắp hầm chín ra dĩa, cho chút dầu bắt đầu xào rau: “Hành để nêm nếm thôi, tôi không ăn thì lựa ra thôi.”
Hai người bận rộn gần một tiếng, Thẩm Bồi xào ba món: trứng xào cà chua, cà rốt xào thịt bằm, cải thìa xào đậu hủ khô, làm xong thì cháo cũng chín rồi, mở nồi cơm điện ra, mùi hương ấm áp thơm phức từ từ tỏa ra, căn phòng nhỏ hẹp thoáng chốc đã ngập chìm trong đó, hương thơm nồng nặc khiến con người ta ngẩn ngơ.
Thẩm Bồi trực tiếp bưng cả cái nồi ra đặt lên bàn ăn, tránh cho lúc bới cơm khỏi phải đi tới đi lui, không thuận tiện. Thuận tay múc cháo cho cả hai, đẩy một chén trong đó đến trước mặt Khương Hòa Tông.
“Ăn thôi!” Thẩm Bồi gõ nhẹ vào bát tuyên bố.
Cháo mặn thơm ngon, ăn vào bụng khiến cả người ấm áp thoải mái. Khương Hòa Tông cảm thấy mấy món này còn hiệu quả hơn thuốc đau bao tử.
Thẩm Bồi vừa ăn hai phần bánh bạch tuộc, thật ra không đói lắm, nhưng đồ ăn vừa thơm vừa ngon miệng, chờ cậu ăn xong hai bát cháo mới nhận ra mình sắp no chết mất.
Ăn uống no nê xong, Thẩm Bồi vươn vai ngáp, lười biếng dựa vào ghế, híp mắt cảm thán: “Thật tốt!”
Khương Hòa Tông cũng đã ăn no, trả lời “Ừm”.
Thẩm Bồi lấy tay chống đầu, câu được câu không nói chuyện với Khương Hòa Tông: “Tôi nói với cậu này, cậu là người khách đầu tiên của nhà này đó, đương nhiên dì chủ nhà thì không tính, cậu là người đầu tiên!”
Nồi cháo như lật úp trên mặt đất, lại giống như vốn dĩ đã nấu cả căn phòng vậy, hương vị thoải mái ấm áp dung hòa với ánh đèn mờ, chầm chậm đun sôi làm tan đi nhiều thứ, ví dụ như những cô đơn và nỗi buồn, ví dụ như những ranh giới và khoảng cách.
Khương Hòa Tông nở nụ cười.
Giống như ngọn núi băng ở đảo hoang âm thầm hòa tan.