The Seven Isles là một quần đảo gồm bảy đảo lớn và vô số hòn đảo nhỏ xung quanh, nó nằm phía đông bắc Narnia, cách bờ biển khoảng hai trăm hải lý.
Suốt một nghìn năm lịch sử của Narnia không một ai chọn tới đây sinh sống, hiện tại nó thật rất ‘hoang sơ’. Tuy họ biết vị trí quần đảo nhưng không có bản đồ cụ thể từng hòn đảo.
Tới tận bây giờ, chưa có ai đặt tên cho chúng, hai người thống nhất hòn đảo đầu tiên họ đến tên là Avaritia.
Đoàn thuyền lênh đênh trên biển suốt bảy ngày, cuối cùng họ nhìn thấy hòn đảo đầu tiên của The Seven Isles.
Ấn tượng đầu tiên về hòn đảo là nó rất xanh tốt, cả hòn đảo phủ đầy rừng cây. Địa hình hòn đảo nghiêng theo hướng từ bắc xuống nam, ta thấy rõ những dãy núi cao hiểm trở phía bắc, và đồng bằng, rừng rậm ở phía nam.
Con thuyền ‘Ánh rạng đông’ cập bờ phía nam hòn đảo, thủy thủ đoàn nhanh chóng vận chuyển đồ thám hiểm xuống thuyền con. Chúng là mấy cái lều, vũ khí, đò ăn, thức uống, v… v...
Trước khi tới đây, Ambrose cùng mấy người bề tôi đã bàn nhau rồi. Chuyện đầu tiên trước khi khai hoang một hòn đảo trên biển là tìm được nguồn nước, đây cũng là mục đích trước hết của đoàn thám hiểm.
Đoàn thám hiểm gồm một trăm người, chúng đều là những chiến sĩ cùng mụ phù thủy đi tới doanh trại Alan.
Ambrose và Fayola dẫn đầu đoàn, phụ giúp hai người là Ẩn sĩ và báo đen Black Panther, chọn báo đen mà không chọn Otmin vì ông ta thân hình nhỏ bé và linh hoạt, ông dễ dàng đi lại trong rừng hơn thân hình cao lớn của Otmin.
Riêng phần chuyển đồ và chuẩn bị thám hiểm đã ngốn cả đoàn một buổi chiều. Bọn họ nghỉ trên bờ biển một đêm, sáng sớm hôm sau họ xuất phát, Ẩn sĩ đi đầu nói:
“Chúng ta đi thẳng về hướng đông, với dạng địa hình này thì những con sông, hay con suốt thường chảy theo hướng Bắc Nam, chẳng mấy chốc ta sẽ gặp nguồn nước.”
Ambrose gật đầu, cậu cũng nghĩ vậy. Fayola cô bé không có ý kiến gì. Cả đoàn theo hướng đông vào rừng.
Rừng cây tại đây âm u hơn Ambrose nghĩ, từng lớp lá, từng lớp cây cối đan xen khiến ánh sáng khó lọt qua. Độ ẩm không khí rất cao, cậu có thể ngửi thấy mùi thực vật phân hủy, mùi đất rõ ràng.
“Xoẹt xoạt.” Ba tên lính đi trước mở đường, bọn họ cầm thanh kiếm chặt mấy cậy thân leo chắn lối.
Đoàn thám hiểm càng ngày càng xa bờ biển, Ambrose lúc trước còn nghe rõ tiếng sóng vỗ rạt rào, bây giờ cậu không nghe thấy gì cả. Khu rừng này quá yên ắng, không biết thứ gì đang đợi họ phía trước.
Bỗng nhiên, một người hét lên:
“Có thứ gì đang kéo tôi… CỨU.”
Ambrose quay lại thấy anh ta nằm sấp, hai tay bám chặt một gốc cây bên cạnh, một thứ dài dài quấn lấy chân anh ta, nó đang kéo anh ta vào bụi cây.
Thật may mắn ở đây đều là những chiến sĩ tinh nhuệ của vương quốc, nếu là người bình thường chắc chắn đã bị kéo đi mất tăm không biết sống chết rồi.
Mười người lính đi cuối phản ứng thật nhanh, họ chia nhau hai người mang kiếm đi chém thứ dài dài đấy, tám người khác giữ lấy người lính đen đủi. Những người còn lại trong đoàn nhanh chóng hộ vệ quanh Ambrose hai người.
“Phập.” Thứ dài dài bị chém đứt, phần còn lại của nó vẫn bấu chặt lấy người lính, nó quằn quạy như cái đôi thạch sùng bị đứt.
Người lính đen đủi hoàn hồn, anh cảm ơn mấy đồng chí giúp đỡ, anh đứng dậy gỡ cái dài dài ra khỏi chân, rồi anh ta mang nó tới gần Ambrose và Fayola.
Ambrose thấy nó nhầy nhầy, màu đen thui, bóng bóng, bên trong nó như có nước vậy. Trên người nó tỏa ra một mùi hôi khủng khϊếp. Cậu nhìn Ẩn sĩ hỏi:
“Ẩn sĩ, ông có biết đó là gì không?”
Ẩn sĩ vuốt vuốt râu, ánh mắt nghiêm nghị:
“Đây là một con giun Wuchereria, nó thường xuất hiện vùng rừng rậm phía nam, không ngờ nó có mặt ở đây. Chắc là nó theo dòng hải lưu trôi rạp tới hòn đảo này...”
“Ở đây còn một con nữa…” Đúng lúc này, một người kêu lên cắt đứt lời ông.
Mọi người nhanh chân xúm lại xử lý con giun, Ẩn sĩ thấy vậy nhắc nhở:
“Bắt sống lấy nó, chúng ta có việc phải nhờ con giun.”
Quân lính tuân lệnh, bọn họ mỗi người cầm một cái sô, thứ mang theo để đựng nước, họ bao vây lấy con giun. Bằng một cái vồ ếch khéo léo, con giun bị nhốt gọn gàng trong cái sô.
Ambrose nhìn kĩ con giun, lần này nó nguyên vẹn. Con này nhỏ hơn con trước nhiều, nó to bằng một ngón tay và dài hơn hai mét. Trông nó rất khỏe, con giun quành quạy khiến cái sô kêu thùng thục.
Fayola ghé mắt nhìn con giun, rồi nhanh chóng quay đi, cô bé hỏi Ẩn sĩ:
“Con vật này thật xấu xí. Chúng ta làm gì với nó?”
Ông ta từ từ đón lấy con giun nói:
“Loài giun Wuchereria sống theo bầy, trong đó, cầm đầu là giun chúa, nó to gấp mười lần giun bình thường, con này chỉ là con giun non thôi.”
Ambrose nghĩ mà cả người run lên, to gấp mười lần, vậy giun chúa to như con chăn khổng lồ rồi, cậu thứ tưởng tượng một cái ổ có một con giun chúa to như vậy, xung quanh bò nhúc nhúc mấy con giun khác, cả bọn đều nhớt nhớt, bốc mùi.
“Điều quan trọng là, loài giun Wuchereria làm tổ sống ở trong một hồ nước, chúng sẽ tiếp tục sống ở hồ nước ấy tới khi cả hồ đầy giun, rồi giun chúa sẽ chia tổ, đi tìm hồ nước khác. Nhìn xem hai con giun này chắc là quân dò đường, đàn giun chuẩn bị chia tổ rồi.” Ẩn sĩ nói tiếp.
Lần này Ambrose hoảng rồi, một hồ nước nhỏ nhất cũng hơn một héc ta, cả một hồ ta như vậy nhúc nhích đầy giun, cậu khó khăn nói:
“Chúng ta có thể tìm nguồn nước từ đấy, nhưng bọn giun hôi như vậy, nước đó ta có dùng được không?”
Fayola nghe vậy nhất trí, da gà cô bé nổi hết lên từ lúc nào. Mấy còn giun này thật kinh tởm.
“Yên tâm đi nhà vua, giun Wuchereria chỉ sống trong hồ nước hở, nghĩa là hồ nước có sự bổ sung nước từ một vài con suối và nước trong hồ cũng thoát ra một đường khác. Chúng ta chỉ cần chờ vài tuần là có một hồ nước mới tanh.” Ẩn sĩ giải thích.
“Bây giờ ta sẽ dùng phép thuật làm cho con giun khô lại rồi nó sẽ phải tự tìm về tổ.”
Nói xong, Ẩn sĩ miệng niệm thần chú, năm chùm lửa nhỏ xuất hiện, chúng bay lòng vòng quanh cái xô và hong khô con giun.
Sau một phút, con giun như bị xẹp đi một nửa vậy, Ẩn sĩ bấy giờ thu hồi lại phép thuật, ông thả con giun xuống đất. Vừa chạm đất nó như tìm được tự do, nó vội vàng bò cong cong về phía trước.
Ẩn sĩ nói với mọi người:
“Nhanh, chúng ta đi theo con giun, chú ý đừng mất dấu nó…”
Nói thật được lần theo dấu vết của một con giun đen sì, lại trong một cái khu rừng tối tăm như vậy là cực kỳ khó.
Mọi người ai ai cũng phải cắng mắt lên tìm kiếm dấu vết của nó.
Sau gần một tiếng đông hồ lọ mọ và chui rúc, họ thoát khỏi khu rừng rậm và đến một bãi cỏ thưa hơn nhiều. Lúc này cũng nhận thấy mùi hôi thối càng ngày càng đậm đà.
Ambrose đoán rằng mình đã tới cái hồ hay nói chính xác hơn là cái ổ giun, cậu ngước lên nhìn.
Thật là một khung cảnh kinh dị, Ambrose thề cậu chưa bao giờ thấy thứ nào hơn thế. Một cái hồ nước không có tí sóng nào, chỉ có mấy con giun đang ngoi lên ngoi xuống, thỉnh thoảng chúng phun bọt vàng khè, mấy bong bóng vàng ấy bay lên nửa mét trên không rồi “Pục” vỡ ra.
Fayola che miệng lại cố kìm nén cảm giác buồn nôn, cô bé nhìn lão Ẩn sĩ nói:
“Cháu nói thật, dù cho nước hồ có sạch thật đi chăng nữa, cháu vẫn không dám uống nước ở đây đâu. Chúng ta phải làm gì đi chỗ này thật là kinh tởm?”
Ẩn sĩ cũng thấy ghê ghê, ông hối hận về đề nghị của mình, nhưng nếu không có nguồn nước khác thì bọn họ phải đành chịu thôi, ông đề nghị:
“Vậy ta sẽ triệu hồi ngọn lửa đốt cháy hết của chúng, chất nhớt nhớt của mấy con giun là thứ rất bắt lửa...”
Ông chưa nói hết thì biến cố nổi lên, gió thổi mạnh khiến những cái cây nghiêng ngả, lá rụng bay khắp nói. Nhưng dây không phải gió thổi ngang mà là từ trên trời thổi xuống đất.
Ambrose ngần đâu lên nhìn, trên hơn hai mươi cái bóng khổng lồ. Đó là những con chim, Ambrose nhận ra, những con chim đủ to để ăn những con giun khổng lồ.
Fayola lo lắng nói, cô sợ mình bị mấy con chim coi là giun:
“Chúng ta lấp đi, những con chim kia quá to, có khả năng chúng tấn công ta.”
Mọi người cũng nghĩ như vây, họ nhẹ nhàng lùi về bụi cây rậm rạp, chờ đọi đàn chim bay đi.
Thật không ngờ, với kích thước không lồ như vậy, mấy con chim này có thể bay đứng như chim ruồi, Ambrose hứng thú quan sát đàn chim, cậu nhận xét.
Lũ chim co đôi cánh lại rồi lao mình xuống mặt hồ, tới nơi, chúng bật mở đôi cánh ra hết cớ: cả thân hình con chim như một cái tàu lượn lướt trên mặt hồ.
Chúng dùng mỏ cắp lấy một con giun rồi bay lên nuốt chửng. Chúng lao lên lao xuống như vậy, cho tới khi cái diều căng đầy.
Không biết chúng làm thế nào mà chịu được mùi vị mấy con giun, Ambrose tự hỏi. Cậu đoán chúng đang nuôi con cho nên mang ăn nhiều như vậy. Đột nhiên, cậu có một ý tưởng lóe sáng trong đầu, cậu nói hỏi Ẩn sĩ:
“Ông nghĩ chúng ta có thể thuần hóa được loài chim kia không?”
“Thật thông minh, Ambrose. Cậu định dùng chúng là phương tiện đi lại à.” Fayola nhận ra ngay ý tưởng của cậu.
“Ta nghĩ có thể, loài chim này trí thông minh khá thấp, chính xác là chúng không có trí khôn giống con người, ý tưởng của điện hạ sẽ thành công.” Ẩn sĩ suy tư nói.
“Nếu vậy ta phải tìm nguồn nước khác rồi, chúng ta phải giữ lại bầy giun làm thức ăn cho lấy con chim.” Fayola chỉ ra vấn đề, trong lòng cô bé luôn kháng cự việc dùng nước hồ này.
“Chúng ta có thể dùng nước thượng nguồn, Ẩn sĩ vừa nói ràng đây là một cái hổ hở, nó co nguồn nước bổ sung, ta chỉ cần tìm nó. Và cẩn thận dùng không quá nhiều để bầy giun đủ nước sống, mặt khác ta có thể hạn chế được số lượng giun trong hồ. Không để chúng bò lung tung tới chỗ khác.” Ambrose nghĩ ra cách nói.
“Đúng vậy, chúng ta có thể giải quyết nước uống, giun và chim.” Fayola nói.