Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, là Hạ, là Đông. Là gì cũng còn dễ nghe. Nhưng hắn ta lại là Trạch Văn Đoành. Nghe như súng thần công. Nó chọc vào lỗ tai.
Đã thế cái mặt hắn lại vênh vênh, ngậu xị thế nào…đôi lưỡng quyền nhô ra như gây sự với người ta. Hai má thóp vào để tiếp sức cho hai cái lưỡng quyền. Cái mũi bóp lại ở trên để cho dưới được banh ra. Nó phệ bụng ngồi trên một cái vành trăng khuyết màu đen giống như hai cái sừng trâu chắp liền lại với nhau: ấy là những cái ria ngoắt hẳn lên. Cái hàm răng vổ làm môi trật hẳn ra. Những cái răng dọa nạt ai; y như một con chó khi nó gừ gừ với một con chó khác. Nhưng tất cả những cái ấy còn có thể tha thứ được. Lỗi ở tay bà mụ nặn. Song những con mắt, những con mắt nó là tấm gương của linh hồn. mới đáng ghét vô cùng. Chúng chỉ bé thôi nhưng chúng lăn tăn, chúng lấp lánh như nhạo, như cười, như khinh khỉnh với người ta. Chúng chẳng nhìn xuống bao giờ. Chúng nhìn thẳng, chúng nhìn nghiêng. Cái nhìn tự đắc như cái nhìn của một kẻ có thể nhắc người ta lên như nhắc một cái lông. Ghét lắm!
Cái đầu Trạch Văn Đoành không húi như đầu của chúng ta. Một lối riêng. Hắn gọi là mốt tiền văn minh, hậu nhà sư. Đằng trước có mấy món tóc dài để chải lật lên. Đằng sau cạo nhẵn thin như quả bưởi. Cho nó sạch. Hắn tặc lưỡi và bảo thế những khi vui miệng. Bởi vì nếu hắn không vui miệng thì hắn không nói thế. Hắn không thích cắt nghĩa những việc làm của hắn. Ai nói gì, mặc họ. Hắn cứ làm theo ý hắn và không cần nói để tự bênh vực mình.
Ngay những cái ăn, cái mặt của hắn cũng khác người. Cái ăn bất tất nói làm gì. Người ta ăn ở trong nhà. Vậy thì ai muốn ăn thế nào tùy thích. Ông cũng vậy mà tôi cũng vậy. Ít ra chúng ta cũng có có một xó để tự do. Khi cửa nhà chúng ta khép kín. Ta có thể lố lăng mà không bận gì đến ai. Nhưng chúng ta mặc áo chỉnh tề để ra đường. Vậy thì quần ao sở dĩ có, một phần lớn không phải vì ta, mà lại vì những con mắt nhìn ta. Đã vì chúng, thì chiều chúng một tý kể cũng là phải lẽ. Muốn chiều chúng thật nhiều thì cũng được. Trạch Văn Đoành không thế. Nghĩ đến cách mặc của hắn bao giờ người ta cũng nghĩ đến mùa đông. Bởi mùa đông mới thật có những người mặc chẳng vì ai, nhưng chỉ vì sự dễ chịu của mình. Đoành thuộc vào hạng ấy. Suốt một mùa, hắn chỉ mặc một cái ba-đơ-xuy sắc chó gio. Hắn mua hồi đi lính sang Tây. Có bảy mươi quan. Thế mà bền. Đến nay, tất cả, có đến ngót ba chục năm rồi đấy. Lần lót rách bươm tự bao giờ. Nhưng còn cái lần ngoài. Mặc nguyên nó cũng còn ấm bằng mười áo kép. Hắn mặc suốt ngày suốt đêm, khi ăn, khi ngủ, khi làm, khi chơi. Cái áo ba-đơ-xuy mất hết cúc rồi. Hắn đơm hai cái dải thật to hình cái bơi chèo. Những khi hắn đi cày, hai cái giải được bắt giao nhau để thắt lại ở sau lưng. Chặt chẽ và gọn gàng không kém một cái đai. Những lúc hắn đi chơi hoặc ra đình thì hai dải lại cởi ra buông xuôi cho lẩn vào hai mép áo trong. Hắn lại có vẻ ung dung lắm. Ai dám bảo cáo áo ba-đơ-xuy này là cái áo ba-đơ-xuy đi cày? Mà có bảo nữa thì đã sao?
Theo lời mấy ông già bà lão trong làng thì Trạch Văn Đoành là con một ông lão dở hơi. Lão đi câu. Được đồng nào, rượu tất. Bởi vì lão không có vợ, nghĩa là có nhưng vợ chết. Vợ lão để lại cho lão một thằng con trai. Nó giống cha, nghĩa là lớn lên cũng đi câu và cũng rượu bét nhè. Hai bố con ở với nhau trong một cái lều ở bờ sông. Mỗi buổi tối, những người phải đi qua, nghe thấy chúng cười như những thằng điên. Bởi chúng say. Mà khi người ta say, người ta quên cả những sự lầm than của kiếp người, nghĩa là người ta sướиɠ lắm.
Nhưng một đêm mùa đông rét mướt kia, chẳng biết run rẩy thế nào, lão già ngã xuống sông và chết ở dưới sông. Cái xác trôi theo nước. Từ hôm ấy, trong cái lều nhỏ bên sông, người ta không nghe thấy những tiếng cười như điên nữa. Thằng con sinh ra buồn.
Hắn bỏ làng đi đó đi đây. Đi khắp nước Nam.
Rừng xanh, núi đỏ hắn cũng không biết sợ. Hắn sang cả Lào, sang cả Cao Miên. Rồi sang cả nước Xiêm. Những nước ấy cũng gần. Hắn muốn đi một chuyến xa xa. Một hôm hắn xin đi lính chào mào để sang Tây. Năm ấy là năm “min-nớp xăng cát-tó”.
Đình chiến rồi, người ta lại đưa hắn xuống tàu về nước. Hắn lành mạnh như xưa. Bom đạn không làm hắn xước da. Một hôm người bạn ắc-ê của hắn trước kia vốn là một nhà nho, kể cho hắn nghe tích Trình Giảo Kim ở đời Đường. Anh chàng lỗ mãng này mấy mươi lần tính chết mà đều chết hụt. Hắn cười khanh khách, bởi hắn thấy hắn giống anh chàng ấy. Hình như hắn không thể nào chết được. Hắn bắt đầu tin ở cung mệnh hắn. Cái cung mệnh của hắn là tốt lắm, ấy thế là hắn cứ bừa. Chẳng cần gì ai.
Hắn về làng với một con vợ theo, rất nhiều tiền (hồi ấy bạc trăm đã là to) và phẩm hàm. Hắn bỏ tiền ra, mỏ bò, mổ lợn làm khao. Làng đến ăn rồi làng gọi hắn là ông. Một thằng bạch đinh, con một lão đi câu chết mất xác dưới sông, bỏ làng đi chán đi chê, rồi đột nhiên trở về nhảy tót lên bao lan ngồi làm một ông kì mục. Thế thì ai chẳng tức? Ai ở đây là những ông kỳ mục bỗng bị hắn đè đầu đè cổ. Đó chỉ là một lối nói, thực ra thì các ông chỉ phải nhường hắn ngồi chiếu trên. Nhường một thằng không chôn nổi bố ngồi chiếu trên. Như vậy thì nhục quá. Các ông không chịu được. Các ông về hùa với nhau để chành chẽ hắn, để động hắn mở miệng ra là chèn. Hắn đã khổ với các ông khá nhiều. Hơi thấy bóng hắn ra đình là các ông nói móc ngay. Các ông bình phẩm từ cái đầu của hắn rũ rượi như đầu đứa chết trôi (ấy là các ông móc đến cái chết của bố hắn), đến cái áo ba-đơ-xuy của hắn tã như cái áo thằng đánh giậm (ấy là các ông móc đến cái nghề đi câu). Các ông nói cạnh cả đến hàm răng của hắn, cái bộ ria của hắn, cái mặt vác lên trời của hắn. Nhưng vốn bướng bỉnh, hắn không lấy thế làm nao núng. Hắn chỉ mỉm cười chế nhạo hay khinh bỉ. Đôi mắt soi mói của hắn không thèm soi mói đến cái mũi, cái mồm hay cái áo the có mùa chua của các ông. Hắn ngấm ngầm theo dõi đến những việc của các ông làm ám muội. Một hôm, đùng một cái, hắn đưa bốn ông lên huyện vì việc bao chiếm công điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy ông khác lên huyện vì việc làm tiêu công quỹ. Rồi đùng một cái nữa…, và cái nữa… và cái nữa. Luôn năm sáu cái đùng như vậy hắn làm các ông liểng xiểng. Bởi tội của các ông nhiều như lá trên rừng. Con em chúng nó mù, nhưng hắn không mù. Hắn bới ra từng tội một, và nhất định sẽ bới ra đến hết. Các ông đâm hoảng. Các ông đành phải dàn với hắn. Các ông đấm mõm hắn một vài mối lợi. Hắn không thèm nhận, bởi hắn thừa biết nuốt vào thì há miệng mắc quai. Nhưng hắn bằng lòng thôi không kiện nữa. Các ông bắt đầu sợ hắn mà hắn cũng bắt đầu khinh nhờn các ông. Hắn coi các ông như những đồ trẻ con. Để những khi say rượu đùa…
Năm ngoái làng vào đám. Hôm giã đám, có mổ một con lợn tế thần rồi đồng dân hội ẩm. Đồng dân đây có nghĩa là các cụ. Bởi nếu trai em cũng thấy có hứng muốn cùng nhau hội ẩm thì đã có các hàng rượu dựng chung quanh đình.
Lúc tế, ông Cửu Đoành còn ngủ ở nhà. Ông ấy không biết tế, và cũng không nỡ cởi cái áo ba-đơ-xuy ra để khoác cái áo thụng xanh vào mà tế. Các cụ miễn đi cho ông vậy! Điều ấy thì ông không phải nài: các cụ chẳng mong gì có ông; ông cứ ở nhà đến hết đám cho quan viên mừng!
Nhưng ông không ở nhà. Tế xong người ta thấy ông hai tay thọc vào trong túi áo ba-đơ-xuy sắc chó gio, vênh vênh cái mặt lên trời đi ra đình. Trông từ đằng xa đã ghét rồi! Nhưng không thể đuổi ông về, các cụ đành cố tươi cười chào mời ông vồn vã:
– Kìa! Ông Cửu!… Mời ông vào trong này. Chúng tôi ngồi đợi mãi. Mời ông ngồi thưởng trống.
Ông xua xua cái tay trong túi áo. Cái áo thùng thình làm hai cái dải bơi chèo thỉnh thoảng lại thè lè ra. Ấy là ông từ chối…
Mời các cụ, mời các cụ….Các cụ cho mặc ý. Con nhà binh, thích chạy nhảy hơn tĩnh tọa. Ông nháy mắt người ta mấy cái, một ông ra ý hiểu:
Vâng! Tôi biết!… Tính ông Cửu nhà tôi nhân lão nhưng tâm bất lão? Ông còn muốn đi nhìn con gái làng.
Bẩm vâng!
Nhưng ông Cửu không đi nhìn con gái làng. Ông đứng chỗ này một lát, đứng chỗ kia một lát. Rồi ông đến chỗ hai bàn làm cỗ và đứng xem. Ông xem, rồi bàn tán, rồi chia cỗ hộ. Ông nhắc cỗ trên bù cỗ dưới, vặt đống nọ, bỏ đống kia. Thấy ông lanh chanh như vậy người ta cười thầm ông. Làm cỗ là việc của hai bàn. Việc của ông không ở đây. Mân mó vào làm gì cho bẩn tay?
Một thoáng sau là đã lại thấy ông đang nói gì toang toáng ở gốc đa. Rồi một thoáng sau lại thấy ông cười hô hố giữa một đám trẻ con xúm xít xem ống nhòm. Nhưng hai bàn đã bưng mâm. Các cụ sai một ông phó đi tìm ông Cửu. Bấy giờ ông Cửu mới lẹt đẹt kéo lê đôi giày đi vào đình. Trong đình huyên náo lắm. Các cụ đang hạch hai bàn làm sao lại thiếu hai cái móng giò? Móng giò có bốn ông to nhất. Lệ làng từ cổ đến giờ vẫn thế. Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng ông nào còn khỏe răng để có thể gặm nổi cái móng giò nhưng cũng chẳng ông nào chịu mất. Một miếng giữa làng…Đừng có tưởng…Bây giờ còn có hai cái, thì ông nào ăn ông nào đừng?… Các cụ quát hai bàn như vậy. Và hai bàn xanh mắt. Họ cãi nhau chí chóe. Anh nọ rằng anh kia để mất. Anh nào, mặc! Cứ biết là hai bàn sơ ý là hai bàn phải bắt mua can rượu tạ!… Ông Cửu Đoành không nói gì. Ông chỉ cười. Bởi ông đã đi nhiều, từng trải nhiều nên thấy nhiều cái to tát hơn cái móng giò nhiều lắm. Hai cái móng giò không đáng kể. Ra quái gì mà ngậu lên!
Các cụ uống rượu cũng xong rồi, hai bàn đã giải mâm. Lại hát nhà tơ. Ông Cửu ngồi thưởng trống. Ông bảo đào, bảo kép:
Hát cho thật hay vào mới được. Tôi nghe hát, nếu vừa ý, bao giờ cũng có thưởng. Cô đầu tủm tỉm cười:
Bẩm vâng!
Hai đầu rượu tưởng ông Cửu sộp, đến kèm sẵn hai bên…Khúc hát xong kép buông đàn, đào buông phách. Ông Cửu đứng lên để thọc hai tay vào túi áo ba-đơ-xuy màu chó gio. Ông bảo:
Tớ đã hứa tất cả là phải có. Nhưng tiền thì thật hết. Tớ đãi cho cái này, có lẽ còn quý hơn tiền nhiều…
Ông rút một tay áo ra, quẳng một cái móng giò cho anh kép. Ông rút nốt tay kia ra, quẳng một cái móng giò nữa cho cô đào. Rồi ông quay lại:
– Chào các cụ! Tôi xin vô phép!…
Ông lẹp kẹp kéo lê đôi giày qua bọn trai em, hoan hô ông bằng những tiếng cười nổ như xe phành phành.
Tiểu thuyết thứ Bảy.
Số 442, ngày 5-12-1942