Chương 12: Có ngọt không?

Chồng của Winlai tìm tôi, 80% là vì anh ta thiếu tiền. Nghề nấu đá của tôi thực ra không phải là độc nhất vô nhị.

Quá trình này tuy không phức tạp nhưng ai cũng quen đánh nhau chém gϊếŧ, ngồi nghiên cứu hóa học giống như một điều viển vông, dẫn đến chỉ có mấy nhà điều chế đếm trên đầu ngón tay không giỏi bằng tôi, mà có giỏi bằng tôi cũng không nhanh bằng tôi.

Tôi đột nhiên tức giận.

Không phải giận Winlai, Winlai là có ý tốt, vấn đề là tôi mệt mỏi với cái mà cô ấy gọi là ‘né tránh’. Khi tôi còn nhỏ, tôi tránh mặt bố tôi, nhưng ông ta tìm thấy tôi và đánh tôi thậm chí còn nặng hơn, khi tôi lớn lên, tôi tránh Tần Duyệt, cuối cùng hại chết con gái và vợ của tôi.

Có thể thấy, việc ‘trốn’ không giải quyết được vấn đề.

“Chúng ta đến tỉnh Vân Nam mượn đường đi Phongsaly đi!”

Giọng nói của Tần Duyệt từ sau lưng truyền đến, tôi quay đầu trừng mắt nhìn cậu: “Cậu không vào bếp à?”

Trên núi có rất nhiều thú dữ, rắn độc và muỗi, vì vậy tôi để con mèo lớn cho Winlai.

Trong thâm tâm tôi biết rằng tôi có thể sẽ không quay lại lần này, thế nên trước khi đi tôi càng lưu luyến không muốn rời.

Tôi nắm cái ổ đang kêu cót két của con mèo mập và lắc nó, nó “ha ha” nhe nanh hù dọa tôi.

Tôi xoa má con mèo mập, có cảm giác giống như một con chồn, tôi nhìn nó, hôn hôn một lúc mới đặt nó vào vòng tay của Winlai.

Nó ở ngay sau lưng tôi, “ha ha” kêu không ra tiếng, tôi gần như suýt bật khóc.

Tần Duyệt rất quen thuộc với những con đường nằm bên kia mốc ranh. Cậu nói trước kia cứ hai ngày ba bữa là cậu phải ngồi xổm trong bãi cỏ với những người khác để bắt những kẻ buôn bán ma túy, biết rõ nhất phải đi con đường nào. Khi chúng tôi tìm thấy một nhà nghỉ nhỏ ở một huyện tự trị dân tộc thiểu số bên này, tôi gọi điện đến biệt thự suối nước nóng ở Winlai để báo an toàn.

Winlai nói rất nhiều điều vụn vặt, chỉ có một điều tôi nhớ. Cô nói Chaiwan không bị dẫn độ sang Thái Lan, mà đã đến Trung Quốc. Tuy là người Thái Lan nhưng do buôn bán ma túy sang Trung Quốc nên bị Trung Quốc tiếp nhận xét xử, sự việc được thông báo trên truyền hình và Chaiwan bị kết án chung thân.

Tôi không biết nhiều về luật pháp Trung Quốc, tôi hỏi Tần Duyệt tại sao thế này lại chưa bị xử bắn.

Nhưng Tần Duyệt đột nhiên tái nhợt mặt, tôi còn tưởng cậu không quen khí hậu, nhưng sau đó lại nghĩ, cậu khác tôi, cậu vốn là người ở bên này, không có gì là không quen cả.

Tôi hỏi cậu có ăn trúng gì không sạch không, cậu chỉ lắc đầu, đêm đến thì ôm chặt lấy tôi, tôi bị cậu siết đến thở không ra hơi, gỡ tay cậu ra, một lúc sau cậu lại ôm tôi vào lòng.

Có một con sông ở phía trước nhà nghỉ.

Hai buổi sáng thức dậy, tôi có thể nghe thấy một cô gái bên sông đang ngâm nga một bài hát mà tôi chưa từng nghe bao giờ, rất hay.

Tôi tò mò mở rèm nhìn cô gái đang hát trên sông, cô ấy đứng dưới sông, chiếc quần dài vén đến đùi, đang gội đầu trên sông.

Sau khi gội đầu, cô quấn khăn tắm gọn gàng, vừa ngẩng đầu lên thì bất ngờ có một thiếu niên đang thổi kèn harmonica ở phía bên kia.

Giai điệu giống hệt như giai điệu cô ngâm nga.

Góc nhìn của tôi là lưng thiếu niên, tôi chỉ có thể nhìn thấy mặt thổi của chiếc kèn harmonica, là những ô hình vuông như cái lưới màu xanh lá cây, với hai tấm thép tráng gương ở cả hai phía.

Thiếu niên nhìn lại cô gái ngây ngô cười, tôi nhận ra đấy là Tiểu Mộc!

Đang kinh ngạc, Tần Duyệt ở bên cạnh hừ mũi hai cái, tôi đóng rèm cửa lại, ánh sáng vừa chiếu vào mặt cậu liền mờ đi.

Tần Duyệt đã tỉnh, chỉ đang giả vờ ngủ.

Mắt cậu không mở, nhưng ngón tay cậu từ từ duỗi ra từ dưới chăn bông hướng về phía tôi, thành một cái túi nhỏ căng phồng trong chăn bông, tôi lao đến nắm lấy tay cậu, cảm giác như mình vừa bắt được một con chuột nhỏ nghịch ngợm.

Vé tàu không phải ngày nào cũng có, chúng tôi ở lại huyện mấy ngày. Cô gái đang làm tạp vụ ở quán cà phê đối diện, sáng nào người ta cũng thấy cô lau lá hai cây dừa ở lối vào quán cà phê bằng một chiếc giẻ nhỏ màu trắng.

Cô lau từng chiếc lá trên cây dừa một cách cẩn thận, gần như là thành kính.

Tiểu Mộc đi giúp tôi mua cà phê không chịu về, đứng bên cạnh cô gái, tay cầm cốc cà phê bằng giấy, ngơ ngác nhìn người ta lau lá.

Điều đáng kinh ngạc là cô gái cũng nhìn nó, khẽ mỉm cười, một lọn tóc dính vào má cô gái, được cô vén ra sau tai.

Còn lại con sông cuối cùng là rời thị trấn và đi đến xa biên giới hơn, khi chuẩn bị lên thuyền, Tiểu Mộc đứng ở bến tàu, do dự không chịu lên.

Trong lòng tôi biết chuyện gì đang xảy ra, vừa định hỏi thì cô gái lau lá đột ngột chạy lên cây cầu gỗ trên bến tàu.

Cô ấy mặc một chiếc áo tay bồng màu hồng, mái tóc đen dài bị gió hất tung lên như thác nước, còn chưa kịp chạy đến chỗ Tiểu Mộc, nó đột nhiên khóc, kêu lên: “Anh Đoạn, em muốn ở lại đây.”

Thế này cũng tốt thôi, theo chúng tôi cũng không phải chuyện lâu dài.

Nhưng tôi thừa nhận tôi không còn nhiều tiền. Miễn cưỡng đưa một nửa số tiền mặt cho Tiểu Mộc, còn lấy đồng hồ giả của Tần Duyệt xuống đưa cho nó.

Đồng hồ thật được làm bằng vàng. Tôi luôn cảm thấy vàng chỉ làm màu, nên tôi nhờ một người thợ làm cho cậu một chiếc đồng hồ bằng bạch kim theo kiểu dáng cậu thích. Dù không thể bán được nhưng hộp đựng đồng hồ vẫn có giá trị.

Tiểu Mộc lau đi những giọt nước mắt trên khuôn mặt, vẫy tay trên cầu tàu về phía chiếc thuyền đang rời xa của chúng tôi, cô gái nắm lấy cánh tay nó, đặt đầu cô lên vai nó một cách trìu mến.

Tần Duyệt ôm tôi từ phía sau, nhẹ nhàng ngâm nga bài hát tôi nghe lúc sáng: “Ngoài đình nghỉ, cạnh đường xưa, hoa cỏ xanh ngát trời.”

Thuyền cập bến. Đây là một ngôi làng nhỏ ở tỉnh Vân Nam, gần nhất với Tam giác vàng, ngôi làng rất nhỏ và không có ai.

Những dãy nhà gỗ lợp bằng rơm rạ trong làng vẫn chưa xiêu vẹo, những bao quà vặt bên vệ đường đều bị vùi lấp trong lớp đất ẩm ướt, rõ ràng trước đây không lâu còn có người qua lại.

Thời tiết luôn nóng ẩm. Bên đường có nhiều người đắp chiếu. Trong đó có một người không được đậy kín, và một nửa đầu của anh ta bị lộ ra ngoài. Giòi trắng bò ra khỏi lỗ mũi, và một vài cục trứng dính vào bộ ria mép phía trên môi.

Anh ta có lẽ chưa chết quá lâu, da thịt trên người anh ta vẫn chưa thối rữa đến mức không thành hình. Chỉ là xương sườn phình ra từng cái. Anh ta quá gầy, không có đủ thịt để lấp đầy những khoảng trống trong xương.

Cảm thấy hiếu kì, tôi bẻ một cành cây và vén tấm chiếu trên người anh ta.

Tôi thấy những vết thương đen mưng mủ trên cánh tay của người đàn ông này, thậm chí một vài vết trên cổ anh ta. Những người khác không biết, nhưng tôi rất quen thuộc —— đó là lỗ kim để tiêm ma túy.

Dùng quá lâu quá nhiều, mạch máu cứng lại, không đâm được kim nên đâm vào cổ.

Ông lão làng bên đi xe ba gác “kẽo kẹt” đi ngang qua, tôi nghĩ chắc bánh xe của ông ấy cũng thiếu dầu bôi trơn như khớp xương của tôi nên mới phát ra thứ tiếng như mài răng thế này.

Ông cụ già không hề ngại ánh mắt mọi người, dù sao ở đây cũng không có người sống, ông đi từ nhà này sang nhà khác nhặt đồ bỏ vào thùng, có lẽ thấy Tần Duyệt và tôi đi ngang qua, nên ông nói chào chúng tôi xong nói vài câu: “Cách đây 10 năm làng này khá giàu, rồi Miến Điện ra trận…” Ông già chỉ tay về hướng cột mốc biên giới rồi nói: “Có mấy người Miến đến sống trong làng và bán heroin! Để cả làng làm việc này … không sợ nghèo, không sợ lười, chỉ sợ chết!”

Tôi như đến hôm nay mới biết mình đã làm gì.

Sau khi đi qua ngôi làng này mới nhìn thấy có người dân.

Thị trấn ít người, nắng quá độc, Tần Duyệt một mình đi mua vé phà, bảo tôi đợi cậu ở một quán bún gạo.

Bún gạo nhếch nhác, nước lèo sôi sùng sục, tôi ăn không nổi, nhìn lên thì thấy một người phụ nữ trung niên đang nấp trong góc chật chội đang nhìn tôi.

Tôi nhìn bà cười rồi tiếp tục cúi đầu thổi bún.

Một lúc lâu sau, tôi lại ngẩng đầu nhìn người phụ nữ. Quan sát cẩn thận. Mẹ tôi sinh tôi lúc chỉ mười mấy tuổi, đến nay bà chỉ ngoài 40. Nếp nhăn của bà đã hằn sâu và da sạm đi rất nhiều, nhưng bà vẫn đẹp.

Chắc hẳn trong mắt con trai, mẹ sẽ luôn là người đẹp nhất.

Nhận ra tôi đang nhìn bà, bà do dự ngồi xuống sờ đùi tôi. Không phải là cái sờ đứng đắn.

Tôi nắm cổ tay bà, bà nói với giọng hơi hoảng, “Phải … trả tiền trước.”

Cái quạt điện bám quá nhiều bụi bẩn kêu vo ve thổi đến tôi, chiếc TV đen trắng đặt xiên xéo trong cửa hàng hát vang “Một bình rượu đυ.c tân hoan, đêm nay đừng mộng lạnh”.

So với những người cùng trang lứa, tôi không có một nếp gấp nào trên khuôn mặt, nhưng tôi quá già rồi, già đến nỗi nước mắt cứ chảy làm hốc mắt luôn mỏi nhừ, mà tôi không còn sức để kiềm chế.

Vì vậy, tôi khóc: “Mẹ ơi, con là A Thố đây.”

Mẹ nói với tôi rằng người đàn ông mà bà tìm kiếm sau đó đã chết vì bệnh tật, bà và người đàn ông đó đã có một đứa con, năm nay 3 tuổi, sinh ra đã bị dị tật xương ức và cần phải phẫu thuật.

Tôi hỏi “chi phí phẫu thuật là bao nhiêu”, lúc này Tần Duyệt đã mồ hôi nhễ nhại trên trán, bực bội nói tuần này không có thuyền ra khơi do bão.

Mẹ tôi trở nên rất rụt rè, khi nhìn thấy Tần Duyệt, bà lập tức giả vờ không biết tôi và trốn đi.

Khách sạn trong thị trấn có mùi ẩm mốc, Tần Duyệt vừa bước vào nhà đã hắt hơi mấy cái.

Trần nhà như sắp rơi vào đầu cậu.

Trên lầu ngâm ủ cá mùi tanh nồng, tầng dưới trẻ con la hét khóc lóc, bên trái chồng đánh vợ, bên phải gái mại da^ʍ đón sáu khách chỉ trong một đêm …

Tất cả âm thanh đều rõ mồn một.

Tôi không thể ngủ được, tôi muốn ăn đào, thèm đến hoảng.

Khách sạn có điều kiện tốt hơn thì xa, chưa kể còn cần CMND, giấy giới thiệu hay gì đó. Tần Duyệt thận trọng, nói dù có để lại thông tin giả cũng có thể bị lần theo manh mối.

Tôi mơ hồ cảm thấy cậu không nói về chồng của Winlai, thằng đấy không giỏi giang như vậy.

Tần Duyệt ra ngoài xem có thể thuê riêng một chiếc thuyền và người cầm lái không, tôi tranh thủ lúc cậu vắng mặt đến quán bún gạo để gặp mẹ tôi.

Mẹ tôi đưa tôi đến nơi bà ấy sống.

Quả thật có một đứa trẻ đang nằm trên giường. Thằng nhóc có cái ức to, nhọn nhô ra khỏi xương sườn, lưng còng queo nên không đứng dậy được.

Khi tôi đi ra khỏi nhà mẹ tôi, tôi đi ngang qua một cột điện thoại với những quảng cáo dày đặc về bệnh giang mai, tôi thấy có một người đàn ông gầy chỉ còn trơ bộ xương, tôi biết anh ta làm cái gì, hỏi: “Giá thị trường ở đây là bao nhiêu?”

Anh ta nhìn tôi đầy nghi ngờ, sau đó báo cái giá cao một cách vô lý.

Tôi hỏi lại anh ta: “Còn xuất hàng thì sao?”

Anh ta nhìn tôi một lần nữa, sau đó đưa ra một mức giá thấp đến nực cười.

Lần đầu tiên tôi bảo Tần Duyệt xin ephedrine, tôi hoàn toàn không lười cậu.

Ephedrine thực sự hiệu quả. Với nó, không cần thiết bị nhà máy phức tạp nào cả. Chỉ cần mua một ít axit clohydric và các thuốc thử hóa học thông thường khác là có thể nấu đá ở nhiệt độ phòng.

Lúc tôi đến tiệm thuốc tây, trong tiệm thuốc cũng có một cái TV, nữ MC đang ngồi nghiêm chỉnh phát tin tức thời sự chính trị và dân sinh.

Bên này tiệm cơm, hiệu thuốc và những nhà buôn bán luôn đặt TV bên ngoài, trẻ em khắp phố sẽ đến xem.

Trên màn hình xuất hiện thông báo truy nã.

Nghe nói là đối tượng buôn bán ma túy bị truy nã, tôi tự tin nhìn một hồi, giá treo thưởng có 10.000, 20.000, 50.000, càng về sau càng có giá. Bức cuối cùng là bức ảnh của năm người chúng tôi năm đó, chỉ có gương mặt của tôi được phóng to, còn những người phần khác bị cắt bỏ.

Số tiền thưởng là 150.000.

Cô gái nhỏ trong quầy kính vẫn đang thuyết phục tôi: “Anh ơi, nếu cảm lạnh không nghiêm trọng, ưỡn một cái là qua. Uống thuốc nhiều không tốt đâu”.

Tôi chỉ vào thiếu niên trong bức ảnh trên TV và hỏi cô bé, “Cô thấy người này giống tôi không?”

Cô bé mặc chiếc áo khoác mỏng màu trắng, khi quay đầu xem TV, tóc đuôi ngựa suýt quất trúng mặt tôi, tôi cúi người lùi lại, cô bé che miệng đỏ mặt cười: “Anh ơi, anh cứ nói đùa!”

Cười xong, cô ấy lại hỏi tôi: “Anh còn cần thuốc cảm không?”

Tôi xem thiếu niên trên TV cho đến khi màn hình quay lại cảnh nữ MC, cô MC nói lời tạm biệt và bắt đầu phát quảng cáo rượu.

“Không cần đâu, cô nói đúng, ưỡn một cái là qua.” Tôi nhìn cô gái cười rồi hỏi cô ấy mượn giấy bút.

Tôi cẩn thận kiểm tra địa danh và tên đường của nơi này với cô ấy, rồi viết tên khách sạn nơi tôi ở vào tờ giấy, từng nét chữ cẩn thận.

Sau đó tôi tìm mẹ tôi. Bà ấy không biết chữ, tôi bảo bà mang tờ giấy này đến đội phòng chống ma túy ở thị trấn là thể đổi tiền để phẫu thuật cho con trai mình.

Bà cầm tờ giấy nhắn, như thể có điều gì đó muốn nói, nhưng không nói gì.

Tôi phải vỗ vào mu bàn tay bà, bước ra khỏi nhà trọ tồi tàn.

Ánh sáng trong phòng của bà thực sự rất kém, bên ngoài thì nắng chói chang, vừa ra ngoài ánh nắng chói đến mắt đau nhức.

Tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi nức nở, và không hiểu sao tôi lại nhớ đến con mèo của mình khi nó mở miệng ‘ha …ha” kêu không thành tiếng.

Tôi gần đến khách sạn nơi tôi ở. Không ngờ lại nhìn thấy Tần Duyệt ở cột điện thoại ngã tư, đang ngồi chồm hỗm ở đó hai tay ôm cột điện, nôn mửa trời đất tối sầm.

Mặt của Tần Duyệt bị ánh mặt trời thiêu đốt đỏ bừng, tôi ngồi xổm ở bên cạnh cậu, chờ cậu nôn xong. Sau đó duỗi một ngón tay ra chọc vào cánh tay cậu: “Áo gối, áo gối nhỏ, sao lại bị cảm nắng rồi?”

Áo gối nhỏ nghiến răng nghiến lợi nói: “Anh chạy lung tung đi đâu đấy!”

Tôi hỏi cậu: “Cậu đã thuê phà chưa?”

Cậu gật đầu.

Đi theo sông này về phía bắc sẽ đến Phongsaly, Lào.

Cậu đứng trên thuyền đưa tay ra kéo tôi lên, tôi nhìn cậu. nói với cậu rằng người phụ nữ tôi gặp ở quán cơm là mẹ tôi.

Tôi nói, “Tôi muốn đưa bà ấy đi cùng, nhưng bà ấy từ chối. Tôi sẽ ở lại thuyết phục bà ấy” Tôi vẫn không nhịn được muốn nắm tay áo gối nhỏ của tôi, tôi nắm chặt hai ngón tay cậu mân mê, “Cậu đi trước đi, tôi ở lại thuyết phục, hai ngày nữa tôi đến sau.”

Tần Duyệt không nói lời nào, cậu đứng ngược sáng, tôi không nhìn rõ được vẻ mặt của cậu.

Tôi vẫy tay với người lái tàu bên cạnh Tần Duyệt, ra hiệu cho anh ta khởi động thuyền.

Máy phát điện bắt đầu chạy có tiếng nổ “đăng đăng đăng”, Tần Duyệt không đứng vững suýt nữa bị ngã.

Thuyền lái rất nhanh, mặt nước bị lưỡi dao sắc bén phá vỡ, chẳng mấy chốc đã trở thành một cái bóng nhỏ.

Tôi không nhìn nữa, và bắt đầu đi bộ trở về, cảm thấy rất bình tĩnh, không có bất kỳ suy nghĩ buồn bã nào. Giống như một mặt nước không có gợn sóng.

Bỗng phía sau có tiếng “thình thịch” rất lớn, tôi sợ tên lửa đập xuống nước, giật phắt người quay lại.

Không có tên lửa, là Tần Duyệt.

Cậu ngược dòng nước bơi đến, hồi lâu mới leo lên bờ, giống như một con chó con ngoáy nước trên lông, tức giận mà chỉ vào tôi thở phì phò mũi mắng: “Mẹ anh … Đoạn thố! Em..em mới là mẹ anh! “

Trời gần chạng vạng.

Trên đường trở về, tôi nói đau đầu, muốn ăn đào nên kêu Tần Duyệt đi mua, còn mình về khách sạn ngủ một giấc.

Cả con phố này không có đào, lúc trước tôi đã đi tìm.

Tôi mơ mơ màng màng, thực sự chìm vào giấc ngủ.

Cuồng phong đang rít gào, khung cửa sổ bị lay “rầm, rầm, rầm”, bên ngoài đột nhiên có rất nhiều tiếng bước chân cố ý nhẹ nhàng.

Cửa dưới lầu bị tiếng nổ đập mở ra, tôi nghe thấy có người hét lên: “Cảnh sát Tần? Tôi tưởng anh chết rồi!”

Tần Duyệt vào nhà trước, trên tay cậu có súng, nhanh chóng đưa súng cho tôi, ném túi nhựa trong tay đi.

Túi nhựa bị va đập, mùi đào ngọt ngào thoảng qua.

Chúng tôi còn chưa kịp nói chuyện, ống ngắm hồng ngoại đã lắc lắc trên vách tường, tôi kéo băng đạn, dí họng súng vào đầu Tần Duyệt, đúng lúc cảnh sát vũ trang đạp cửa xông vào.

Tôi dùng Tần Duyệt chắn thân, nhìn cảnh sát vũ trang Trung Quốc: “Tránh ra.”

Tôi kéo cậu xuống cầu thang và ra khỏi cửa.

Gió đêm thổi qua, mát dịu mềm mại.

Đối diện là một quán cơm, và phía sau tấm biển quảng cáo khăn mặt là một tay bắn tỉa.

Cuối cùng tôi không còn phải giả vờ rằng tôi không ghét Tần Duyệt nữa. Tôi hận cậu vì đã thiêu sống con gái tôi, ép chết vợ tôi, vì đã gϊếŧ anh em tôi với danh nghĩa yêu tôi.

Tôi kề sát vào tai cậu: “Tiểu Duyệt, khi trở về, hãy làm một cảnh sát tốt.”

Sau đó, tôi đột ngột đẩy cậu ra xa, ánh sáng đỏ nhấp nháy, tay bắn tỉa đã nhắm mục tiêu ổn định. Tôi nghe bên tai ai đó hát “Ngoài đình nghỉ, cạnh đường xưa, hoa cỏ xanh ngát trời.”

, chốc chốc lại tái ngộ với “Ngọt ngào”.

Tất cả âm thanh đều biến mất.

Khi gió thổi qua, những bông hoa đỏ trên cây đều rơi xuống, cánh hoa bồng bềnh rải khắp người tôi, trước mặt tôi chỉ có Tiểu Duyệt cười với hai má lúm đồng tiền, nhìn tôi ăn đào.

Vỏ quả đào nhẹ nhàng rơi ra, thịt quả chín mềm mọng nước.

Cậu hỏi tôi, “Có ngọt không?”

TOÀN VĂN HOÀN