Đến chiều, cả hai mẹ con cùng nhau dập lúa và giã gạo. Thời cổ, công việc này khá nặng nhọc và vất vả. Nhưng với Hãn, công việc này rất vui và đơn giản. Linh hồn của Trần Khôi trong Hãn cũng nhận ra cơ thể này tuy nhỏ tuổi nhưng rất khỏe, có thần lực. Một mình Hãn cũng có thể nhấc bổng được chiếc cối đá lớn nặng đến hơn 60 cân. Một đứa trẻ 12 tuổi có làm được việc này sao? Hơn nữa, hắn cũng cảm nhận thân thể này có cao hơn so với những đứa trẻ khác cùng trang lứa trong làng, đơn cử như tên Sóc. Hãn cao hơn hắn đến 1 cái đầu, cũng có thể do mất cân bằng dinh dưỡng ở thời này. Nhưng Hãn hiện tại cũng ở mức trên 1m5 rồi. So với thời hiện đại, như thế này là bình thường nhưng ở thời cổ thì đã được gọi là cao.
Cả ngày hôm đó, Hãn giúp mẹ hắn dập lúa, rất may là cũng có nhiều hàng xóm qua phụ nên công việc hoàn thành rất nhanh. Phần giã gạo thì mẹ hắn nói không cần giúp và bảo hắn đi chơi với chúng bạn nhưng hắn không chịu và giúp mẹ hắn giã đến hết ngày hôm đó. Ngày thứ 2 tại thời đại này của Trần Khôi kết thúc trong êm đềm như vậy đó. Hắn luôn mong ước có một cuộc sống tự do tự tại thế này. Tuy rằng đồ ăn có hơi nhạt và khó ăn với hắn một chút nhưng đối với hắn chà lề hà gì.
Sáng ngày hôm sau, vì công việc ngoài đồng đã xong, nên hắn có nhiều thời gian rảnh hơn rất nhiều. Trẻ con thời này không phải đi học nên trừ khi làm đồng, hắn có rất nhiều thời gian mà ngồi một chỗ thì đâm ra chán chết, hắn bắt đầu thấy nhớ chiếc laptop, điện thoại thông minh của hắn, mà nhớ cũng chẳng được gì, buồn chán quá nên hắn định đi đâu đó gần đây xem thế nào. Đi loanh quanh làng thì chợt thấy có 1 nhóm người Việt, mang theo vũ khí đang tiến về phía làng. Hãn thấy tò mò liền tiến về thì thấy lão Núi Đen cùng mấy người đàn ông đang xách theo vài bao gạo đến.
-Dân làng Tiềm nghe đây, chúng ta vâng mệnh tộc trưởng đến đây thu thuế vụ này
Một tên lính to cao, người để trần, khuôn mặt mập mạp bặm trợn bước đến nói lớn.
-Chúng tôi đã chuẩn bị xong rồi, đây là 60 thạch gạo của của vụ này.
-Ai nói là 60 thạch? Lần này tăng thêm 40 thạch, 100 thạch gạo – Tên này quát
-100 thạch? – Lão Núi Đen giật mình
-Rõ ràng muốn ép người quá đáng – Đám đàn ông phia sau đùng đừng nổi giận phản ứng
-Sao? Muốn chống đối à? Lũ chúng mày quên ai đã cưu mang chúng mày khi thằng tộc trưởng cũ dám làm phản à?
-Mày…- Một người phía sau lão Núi Đen định lao đến
Nhưng lão Núi Đen đã kịp thời cản lại. Lúc này, đám đàn ông trong làng ai nấy đều tức giận, cầm sẵn trên tay một con dao đồng sẵn sàng thí mạng với đám chó săn này. Lão Núi Đen vất vả lắm mới cản được nên mới không có chuyện gì. Đám lính kia nhìn cả đám đàn ông trong làng định gây sự vẫn chẳng tỏ ra lo lắng hay ngán ngẩm, chúng kẻ nào cũng trang bị vũ khí đầy đủ, tên chỉ huy và vài tên nữa còn được chuẩn bị đao sắt của quân Hán, kèm khiên mây. Dù trong làng, tổng cộng có đến 40 người đàn ông khỏe mạnh nhưng đám lính kia lại là lũ đi theo tộc trưởng quần nhau với các bộ tộc khác, đánh nhau như cơm bữa, gϊếŧ người, cướp bóc, hãʍ Ꮒϊếp chưa có việc gì chưa làm, chưa kể, lính của tên tộc trưởng kia đâu chỉ có 10 tên này, hắn có đến mấy trăm người nữa, đυ.ng đến đám này chính là rước họa vào thân.
Nói về số lương thực phải đóng, 50 thạch đã là một con số quá cao rồi. 1 thạch là 60 kg thời hiện đại. Để dễ hình dung thì mình sẽ quy đổi ra tiền cho dễ. Thời Hán Vũ Đế, một loạt cải cách tiền đã được thi hành. Đồng Ngũ Phù đã được sử dụng làm tiền cơ bản, ngoài ra còn có các loại tiền bạc và vàng. Đồng Ngũ Phù làm bằng đồng nặng 4 gram đường kính khoảng 3.5cm. Ở giữa có lỗ hình vuông, hai bên có 2 chữ “Ngũ Phù”. Vũ Đế đã cho cải tiến ít nhất 6 lần đồng tiền để nâng cao chất lượng, tránh nạn tiền giả. Tiền “Ngũ Phù” thời gian này tên là “ Thượng Lâm Tam Quan Ngũ Phù”, “Thượng Lâm Tam Quan” chính là 3 cơ quan đúc tiền cho nhà nước. Đồng Ngũ Phù đã có rìa nổi ở mép ngoài và lỗ vuông bên trong. Tỉ giá có thể ướm như sau, 100 đồng sau thành một chuỗi gọi là 1 quan, 10 quan tương đương 1000 đồng Ngũ Phù bằng 1 lạng bạc, 10 lạng bạc bằng 1 ching vàng (300g). Một số giá mặt hàng thời Hán được ghi lại: Hạt kê 45 đồng đổi được 1 thạch hạt kê (60kg), gạo trắng 80 đồng một thạch. Ngoài ra về thuế thì trung bình một hộ gia đình Hán 5 người phải đóng 150 đồng một năm, bằng 2 thạch gạo, con trai, nếu trên 18 tuổi, đóng thêm 100 đồng, con gái thêm 30 đồng, Con cái ra lập hộ thì không tính nữa. Nhưng cả làng Tiềm chí có hơn 50 hộ, hơn nữa trung bình mỗi hộ cũng chỉ có 4 người, tính ra phải nộp 100 thạch một năm. Giao Chỉ có 2 vụ thì mỗi vụ chỉ phải 50 thạch, đó mới chỉ là thuế của triều đình, thuế cho tộc trưởng cùng lắm chỉ có 5 thạch, thu 60 thạch một vụ vốn đã là ăn cướp, nay đòi thu đến 100 thạch chính là muốn lấy mạng người mà. Cách tính thuế của nhà Hán là mỗi hộ nông dân phải cày cấy được ít nhất 5 mẫu ruộng mới có thể có chút dư dả hàng năm nhưng ở Giao Chỉ cách làm nông nghiệp còn rất sơ khai, chậm tiến nên tuy màu mỡ nhưng cũng chỉ cao hơn sản lượng tại đất Hán chút đỉnh thôi. Phải đến khi Nhâm Diên đến làm Thái Thú dạy nhân dân trồng lúa theo cách người Hán thì lúc này, Giao Chỉ mới thực sự là vựa lúa “đủ nuôi trăm vạn đại quân”. Hiện tại cả làng vụ này chỉ thu được 540 thạch gạo. Trung bình mỗi người cần 0,8-1 cân gạo mỗi ngày vậy số gạo thu hoạch cũng chỉ miễn cưỡng cho dân làng đủ sống đến vụ sau.
Thà mất gạo còn hơn mất mạng, già làng đành phải nói họ mang thêm 40 bao gạo nữa để đóng. Cũng may vụ này cũng có thể coi là bội thu, dằn bụng lại một chút cũng có thể trụ được. Nhưng già làng chịu được chứ Hãn chứng kiến lúc này thì không, hắn lúc này mang trong mình linh hồn của Trần Khôi, một kẻ ngang tàng, chưa ngán kẻ nào, hắn không ức hϊếp người thì thôi sao lại có kẻ dám ức hϊếp hắn. Nhưng hắn cũng hiểu nếu hắn vọng động sẽ gây ra họa, hắn chịu thì không nói nhưng không thể để cả làng chịu được. Dẫu chú ý của hắn chỉ là sống tự tại hết đời ở thời đại này nhưng nếu không nghĩ cách, hắn nuốt không trôi cục tức này.
Một mình trở về làng, lúc này mọi người đều đã giải tán quay về, một vài người thì đi nặn gốm, đan lát hay nấu đồng làm lại lưỡi cày để chuẩn bị cho vụ sau. Khuôn mặt của họ thì không thể vui cho nổi. Cả làng có khoảng 14 con trâu dùng chung, thay nhau cày cấy nhưng chỉ toàn là trâu đực, không có cái vì trâu cái đắt gấp đôi, gấp 3 lần trâu đực do trâu cái có thể đẻ thêm nhiều. Mỗi khi có một con trâu chết già, làng đành xẻ thịt rồi đem bán kiếm tiền mua trâu mới chứ không ăn, nhưng buôn bán thường không thuận lợi, thường bị ép giá. Hãn tuy có chú ý nhưng không để tâm lắm, hắn một mạch đến nhà trưởng làng để lấy thêm thông tin về gã tộc trưởng cũng như thêm chút thông tin về thời đại này.
Nhà của già làng là một căn nhà nhỏ cuối làng, vì chỉ có một mình lão nên căn nhà có chút cũ kĩ nhưng có một thứ mà Hãn để ý nhất là hoa văn trên tường ngoài cùng tượng một con chim Lạc đậu trên nóc nhà. Chúng quả thực rất đẹp và tinh xảo, quả thực trình độ điêu khắc mỹ thuật của người Việt lúc này quả rất ấn tượng. Đứng từ bên ngoài Hãn nhìn thấy lão đang ngồi trên hiên cửa, 2 mắt hướng lên trời xa xăm, một mình nghĩ ngợi điều gì đó khuôn mặt rầu rĩ. Hãn tiến lại lễ phép chào hỏi
-Cháu chào ông.
-Hãn đấy à? Có việc gì thế cháu? – Lão Núi Đen đáp
-Cháu muốn hỏi đám người vừa rồi là ai thế ạ?
-Đó là người của Bạch Kỷ, tộc trưởng hiện tại của chúng ta – Lão thở dài
Qua buổi nói chuyện với già làng thì Hãn biết, làng của hắn bị sát nhập vào bộ lạc của Bạch Kỷ. Hắn là lạc tướng coi quản hơn 30 làng ở phía Tây Bắc này, đông thời tộc nhân cũng có hơn 1 vạn người nên cũng có thể coi là một bộ lạc lớn. Ngoài ra, tên này có mối quan hệ rất tốt với đám người Hán nên được trọng dụng. Hắn dựa hơi người Hán nên hống hách, không coi các Lạc tướng khác ra gì, đối với chính tộc nhân hắn cũng vô cùng tàn ác, thay triều đình trưng thu thuế nhưng cũng bòn rút thêm không ít, cướp bóc, gϊếŧ chóc trên chính nơi hắn cai quản nên người oán hận hắn nhiều không xuể nhưng oán hận hắn thì cũng không được gì, chống đối chỉ có nước chết, hắn còn người Hán chống lưng nữa nên lúc đó già làng mới ngăn người làng không được gây sự. Lúc này lão đang lo không biết làm thế nào có cái ăn qua vụ sau. Mùa này tuy trúng nhưng số lương thực ít ỏi lại phải đóng thêm thuế nặng khiến lão không khỏi buồn rầu.
Lúc này, một người chạy đến, khuôn mặt hoảng hốt, nói
-Trưởng làng, không xong rồi, có 1 con trâu bị chết, 4 con cũng ốm yếu sắp không chịu được nữa rồi.
Lão nghe thế liền một mạch chạy thẳng đến truồng trâu. Nơi này cách làng khoảng 140m nằm nguồn dưới con sông cạnh làng, là nơi nuôi nhôt trâu cho cả làng, mỗi con được để một ngăn riêng và bị cột dây chặt để đề phòng chúng lên cơn trọi nhau. Đám trâu này phần lớn đã già yếu do đã ở làng từ lâu. Lão chạy đến nơi thì thấy có mấy người xúm lại bên xác một con trâu, nó đã chết rồi, vài người còn khóc nữa. Trâu mất rồi lấy gì cày cấy, họ có thể dùng chính sức mình cày nhưng vô cùng mệt, nhanh mất sức lại chậm, chưa kể đợt này phải buộc bụng mà ăn vì số lương thực kia không đủ dùng đến vụ sau, như thế sức đâu mà cày cấy. Số trâu này vốn đã không đủ để cày cấy, nay đã già lại mất thêm mấy con vậy làm sao làm việc được. Lão Núi Đen ngồi xuống, lấy tay xoa người con trâu đã chết, khuôn mặt lão lúc này còn buồn hơn. Hãn cũng hiểu được nỗi buồn này, nếu hắn không nhanh nghĩ cách cả làng chỉ có nước chết đói thôi nhưng hiện tại hắn chẳng biết nên làm gì lúc này. Hắn vốn không có kiến thức nông nghiệp hay thú ý, vốn không thể cứu được đám trâu.
Hai bàn tay nắm chặt lại, hắn giận mình quá vô dụng. Hắn là một kẻ có kiến thức ở thời hiện đại vậy mà không thể dùng ở thời cổ đại này. Thật quá mất mặt. Trở về nhà, mẹ hắn cũng đã nghe qua sự việc, khuôn mặt bà cũng hiện lên vẻ mặt đượm buồn. Cả nhà có 2 mẹ con, không có đàn ông nên 2 người đành dựa nhau mà sống nhưng hàng xóm cũng giúp đỡ nhiều nên cuộc sống cũng có thể nói là đủ ăn. Tuy Trần Khôi không có tình cảm gì sâu đậm với bà nhưng cơ thể này hắn lại cảm nhận được Hãn yêu quý bà hơn bất kì điều gì. Gạo nhà do thuế cao nên cũng không đủ. Càng nghĩ hắn càng lo. Hắn có thể chịu đói nhưng mẹ hắn thì không thể, bà đã hi sinh quá nhiều cho hắn rồi. Cha hắn mất sớm, mẹ hắn thay cha một mình nuôi dạy hắn, hắn còn quá nhỏ để có thể làm những công việc nặng nhọc, cũng may cái cơ thể này có sức khỏe nên hiện tại đã có thể phụ giúp được phần nào. Hôm đó, trong đầu hắn chỉ có nghĩ đến việc làm sao thoát khỏi nghịch cảnh này