Đội quân của nhà vua lên đường từ Deepwood Motte khi tia nắng vàng đầu tiên của bình minh xuất hiện. Đoàn người tuôn ra từ đằng sau vách đá trông như một con rắn dài bằng thép đang từ trong tổ chui ra.
Trên lưng ngựa, các hiệp sĩ phương nam khoác trên mình những bộ giáp tấm và giáp xích lồi lõm và sứt sẹo vì những trận đấu họ vừa trải qua, nhưng vẫn đủ sáng để phản chiếu ánh mặt trời lấp lánh. Dù đã bạc phếch, ố màu, rách rưới và vá chằng vá đυ.p, cờ hiệu và áo choàng của bọn họ vẫn sặc sỡ màu sắc giữa khu rừng mùa đông – xanh da trời và cam, đỏ và xanh lá, tía, xanh nước biển và vàng, màu sắc ẩn hiện giữa những cành nâu trơ trụi, những cây thông lính cùng sentinel xanh xám và tuyết bẩn.
Mỗi hiệp sĩ lại có các cận vệ, người hầu và kỵ binh hạng nặng riêng. Đằng sau họ là người chế tạo vũ khí, đầu bếp, quản ngựa, từng hàng lính giáo, lính rìu, cung thủ; những người lính kỳ cựu với mái tóc hoa râm đã trải qua hàng trăm trận chiến cũng như các cậu bé xanh non mới đi đánh trận đầu. Phía trước họ là người của các bộ tộc trên núi, các tộc trưởng và các nhà vô địch ngồi trên lưng những con ngựa nhỏ bờm xờm, bên cạnh họ là các chiến binh lông lá khoác trên mình lông, da thuộc và giáp xích cũ. Một số người sơn mặt màu nâu và xanh, quanh người buộc cành lá để ẩn nấp trong những tán cây.
Theo sau đội quân chính là đoàn gia súc chở hành lý: la, ngựa, bò, một dặm toàn xe ngựa, xe bò chất đầy thực phẩm, cỏ khô, lều trại và các đồ dự trữ khác. Đi cuối là lính bảo vệ – hầu hết là các hiệp sĩ mặc giáp xích và giáp tấm, cùng một số lính mở đường bí mật đi phía sau để đảm bảo kẻ thù không đánh úp họ bất ngờ.
Trong đoàn chở hành lý, trên một chiếc xe ngựa có mái che và hai bánh xe vành sắt vĩ đại là Asha Greyjoy, tay chân đeo cùm và được canh chừng ngày đêm bởi một con Gấu Cái mà có lẽ không một người đàn ông nào ngáy to bằng ả. Vua Stannis quyết không để cho chiến lợi phẩm của mình trốn thoát. Ông định đưa cô tới Winterfell và bêu cô trong xiềng xích, để các lãnh chúa phương bắc thấy con gái của kraken đang trong cảnh tù tội và đau khổ như thế nào, để chứng minh cho họ thấy sức mạnh của ông.
Mọi người xếp hàng theo tiếng kèn trumpet. Mũi giáo sáng lên trong ánh mặt trời buổi sớm, dọc hai bên đường, những giọt sương đọng trên cỏ lấp lánh. Giữa Deepwood Motte và Winterfell là ba trăm dặm toàn rừng rậm. Ba trăm dặm theo đường quạ bay. “Mười lăm ngày,” các hiệp sĩ bảo nhau như vậy.
“Robert sẽ chỉ mất mười ngày,” Asha nghe thấy Lãnh chúa Fell khoác lác. Ông của
hắn bị Robert gϊếŧ chết trong Sảnh Mùa Hè; và chẳng hiểu sao điều đó lại khiến kẻ gϊếŧ ông trở thành một vị anh hùng thần thánh trong mắt cháu ông ta. “Nếu là Robert thì ông ấy đã chiếm được Winterfell và đứng trên tường thành cười nhạo Bolton từ nửa tháng trước rồi.”
“Tốt nhất đừng nói điều đó với Stannis,” Justin Massey gợi ý, “nếu không ông ấy sẽ bắt chúng ta hành quân cả ngày lẫn đêm đấy.”
Vị vua này sống trong cái bóng của người anh trai, Asha ngẫm nghĩ. Cổ chân cô vẫn đau nhức nhối mỗi khi cô đứng lên. Bên trong có gì đó bị vỡ, Asha dám chắc như vậy. Ở Deepwood nó đã không còn sưng nữa, nhưng cảm giác đau vẫn còn đó. Nếu bị bong gân thì giờ này chắc chắn phải khỏi rồi. Xích sắt kêu leng keng mỗi lần cô chuyển động. Chiếc cùm siết chặt lấy cả cổ tay lẫn niềm kiêu hãnh của cô. Nhưng đó là cái giá của việc đầu hàng.
“Chẳng ai chết vì quỳ gối cả,” có lần cha cô nói với cô như vậy. “Những người quỳ gối có thể lại đứng dậy với thanh kiếm trong tay. Còn những ai không chịu quỳ sẽ chết, chân tay người ngợm cứng đờ.” Balon Greyjoy đã chứng minh lời nói của ông là thật khi thất bại trong cuộc nổi loạn đầu tiên; thủy quái kraken quỳ gối trước hươu và sói tuyết, nhưng là để tiếp tục nổi dậy khi Robert Baratheon và Eddard Stark qua đời.
Và vì thế ở Deepwood, con gái của kraken cũng làm như vậy khi cô bị vứt phịch xuống trước mặt nhà vua trong dây trói, bước đi cà nhắc (may mà không bị cưỡиɠ ɧϊếp) và mắt cá chân đau dữ dội. “Thưa bệ hạ, tôi xin hàng. Ngài muốn làm gì tôi cũng được. Tôi chỉ xin ngài hãy tha cho người của tôi.” Qarl, Tris và toàn bộ những người sống sót trong rừng sói là tất cả những gì cô quan tâm. Chỉ còn lại chín người. Cromm gọi họ là chín kẻ rách rưới. Anh ta là người bị thương nặng nhất.
Stannis tha mạng cho bọn họ. Nhưng cô không cảm nhận được lòng khoan dung thực sự ở người đàn ông đó. Tất nhiên ông ta là kẻ kiên định và lòng can đảm cũng không thiếu. Mọi người nói ông ta rất công bằng… và nếu ông là kẻ công bằng một cách thẳng tay và tàn nhẫn, thì, Asha Greyjoy đã quá quen với điều đó khi sống trên Quần đảo Iron. Dù thế nào đi chăng nữa, cô cũng không thể yêu quý vị vua này. Đôi mắt xanh sâu thẳm của ông dường như luôn ánh lên sự nghi ngờ, và những cơn giận dữ luôn sôi sục đằng sau vẻ bề ngoài đó. Mạng sống của cô hầu như chẳng có ý nghĩa gì với ông ta. Cô chỉ là con tin, một chiến lợi phẩm để cho phương bắc thấy ông có thể đánh bại người sắt.
Một ý tưởng ngu ngốc. Hạ nhục một phụ nữ chẳng làm cho người phương bắc kính trọng ông ta hơn, nếu những gì cô hiểu về họ là đúng, và một con tin như cô cũng hoàn toàn không có giá trị gì. Giờ chú cô đang cai trị Quần đảo Iron, và Mắt Quạ đâu thèm quan tâm cô sống hay chết. Có thể lão chồng già đau khổ mà Euron sắp đặt cho
cô sẽ quan tâm chút đỉnh, khổ nỗi Eric Ironmaker không có đủ tiền để chuộc cô. Tuy nhiên, ai dám giải thích những điều đó cho Stannis Baratheon. Ngay giới tính đàn bà của cô cũng đã là một sự xúc phạm với ông ta. Cô biết đàn ông ở vùng đất xanh muốn phụ nữ của họ phải dịu dàng, mềm mại như lụa, chứ không phải mặc giáp xích và da thuộc với hai chiếc rìu ném ở hai tay. Nhưng từ những gì cô biết về nhà vua khi còn ở Deepwood Motte, Asha biết ông ta cũng chẳng yêu quý cô hơn nếu cô khoác váy vóc lên người. Ngay cả với vợ của Galbart Glover là phu nhân Sybelle sùng đạo, nhà vua tuy cư xử đúng mực và nhã nhặn, nhưng rõ ràng ông vẫn cảm thấy không thoải mái. Có vẻ đối với vị vua phương nam này, đàn bà là một chủng tộc khác, vừa lạ kỳ vừa khó hiểu, giống như người khổng lồ, thần tiên hay lũ trẻ rừng rậm. Kể cả Gấu Cái cũng khiến ông ta nghiến răng.
Chỉ có một người phụ nữ duy nhất Stannis chịu nghe lời, và ông đã để cô ta lại ở Tường Thành. “Thú thực tôi muốn cô ấy ở đây với chúng ta,” người vừa nói là Ser Justin Massey, vị hiệp sĩ tóc vàng chỉ huy đoàn chở hành lý. “Lần cuối cùng chúng ta ra trận mà không có Quý cô Melisandre là trận Xoáy Nước Đen, khi cái bóng của Lãnh chúa Renly ào tới và dìm chết một nửa đội quân của chúng ta ngoài vịnh.”
“Lần cuối cùng ư?” Asha nói. “Phù thủy đó đang ở Deepwood Motte à? Tôi không thấy cô ta.”
“Đó đâu được gọi là trận chiến,” Ser Justin mỉm cười nói. “Người sắt của cô chiến đấu rất dũng cảm, tiểu thư ạ, nhưng quân số của chúng ta đông hơn quá nhiều, và chúng ta đánh úp cô bất ngờ. Winterfell sẽ biết chúng ta đang đến. Và Roose Bolton cũng có nhiều người ngang ngửa chúng ta.”
Thậm chí nhiều hơn, Asha nghĩ. Là tù nhân cũng vẫn có tai như thường, và cô đã nghe lỏm được câu chuyện ở Deepwood Motte, khi vua Stannis và các đội trưởng của ông bàn bạc về cuộc hành quân này. Ser Justin phản đối ngay từ đầu, cũng như rất nhiều lãnh chúa và hiệp sĩ khác đến từ phương nam cùng Stannis. Nhưng lũ sói cứ khăng khăng; Roose Bolton sẽ không thể giữ được Winterfell, và con gái của Ned phải được giải cứu khỏi tay tên con hoang của hắn. Morgan Liddle, Brandon Norrey, Wull Xô Lớn, bộ tộc Flint và ngay cả Gấu Cái đều nói vậy. “Deepwood Motte chỉ cách Winterfell ba trăm dặm,” Artos Flint nói trong đêm cuộc tranh luận trở nên sôi sục trong căn sảnh dài của Galbart Glover. “Ba trăm dặm đường quạ bay.”
“Một cuộc hành quân dài,” một hiệp sĩ tên Corliss Penny nói.
“Không dài lắm đâu,” hiệp sĩ Godry to lớn mà mọi người gọi là Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ khăng khăng nhận định. “Chúng ta đã đi được một quãng đường cũng dài không kém. Thần Ánh Sáng sẽ soi đường cho chúng ta.”
“Và khi chúng ta đến trước Winterfell rồi thì sao?” Justin Massey nói. “Hai lớp
tường thành với một con hào ở giữa, và bức tường trong cao đến hơn ba mươi mét. Bolton sẽ không bao giờ ra đối mặt với chúng ta ngoài chiến trường, và chúng ta không có đủ quân lương để vây thành.”
“Đừng quên Arnolf Karstark sẽ hợp sức với chúng ta,” Harwood Fell nói. “Mors Umber cũng thế. Chúng ta sẽ có nhiều người phương bắc ngang ngửa với Bolton. Và khu rừng ở phía bắc lâu đài rất dày. Chúng ta sẽ dựng tháp bao vây, làm các phiến gỗ phá thành…”
Và hàng nghìn người sẽ chết, Asha nghĩ.
“Tốt nhất chúng ta nên trú đông ở đây,” Lãnh chúa Peasebury gợi ý.
“Trú đông ở đây ấy à?” Xô Lớn gầm lên. “Ông nghĩ Galbart Glover để lại bao nhiêu thực phẩm và cỏ khô?”
Sau đó Ser Richard Horpe, vị hiệp sĩ với khuôn mặt chằng chịt sẹo và mặc áo choàng có hình bướm đêm, quay sang nói với Stannis, “Thưa bệ hạ, anh trai ngài…”
Nhà vua ngắt lời. “Chúng ta đều biết anh trai ta sẽ làm gì trong trường hợp này. Robert sẽ phi ngựa đến cổng Winterfell một mình, đập tan bọn chúng với cây búa chiến, lao qua đám gạch vỡ để gϊếŧ chết Roose Bolton bằng tay trái và tên con hoang bằng tay phải.” Stannis đứng lên. “Ta không phải là Robert. Nhưng chúng ta sẽ hành quân, chúng ta sẽ giải cứu Winterfell… hoặc là chết.”
Dù các lãnh chúa có thể còn nghi ngại, nhưng dân chúng dường như rất tin tưởng vào vị vua của mình. Stannis đập tan đội quân du mục của Mance Rayder ở Tường Thành và quét sạch Asha cùng lũ người sắt của cô khỏi Deepwood Motte; ông là em trai của Robert, là kẻ chiến thắng trong trận chiến nổi tiếng trên biển gần đảo Fair, là người canh giữ Storm’s End trong cuộc tạo phản của Robert. Và ông ấy mang thanh kiếm của một vị anh hùng, thanh Sứ Giả Ánh Sáng ma thuật có thể phát sáng trong đêm.
“Kẻ thù của chúng ta không hề đáng sợ như vẻ bề ngoài,” Ser Justin quả quyết với Asha trong ngày đầu tiên họ hành quân. “Người ta sợ Roose Bolton, nhưng chẳng mấy ai yêu quý hắn. Và lũ bạn Nhà Frey của hắn… phương bắc vẫn chưa quên vụ Đám Cưới Đỏ. Mọi lãnh chúa ở Winterfell đều mất người thân ở đó. Stannis chỉ cần hạ được tên Bolton khốn kiếp, và phương bắc sẽ quay lưng lại với hắn.”
Cứ hy vọng như thế đi, Asha nghĩ, nhưng đầu tiên nhà vua phải làm phe hắn đổ máu đã. Chỉ có kẻ ngốc mới rời bỏ bên thắng cuộc.
Ser Justin năm sáu lần tới chỗ xe ngựa của cô trong ngày đầu tiên để mang cho cô thức ăn, nước uống và tin tức về cuộc hành quân. Một người đàn ông với nụ cười thân
thiện, tính tình hài hước, cơ thể to béo, má hồng, mắt xanh và mớ tóc vàng bạch kim màu sợi lanh rối nhè nhẹ trong gió. Ông ta là một cai ngục thận trọng, luôn quan tâm đến sự thoải mái của tù binh.
“Anh ta muốn cô,” Gấu Cái nói sau khi anh ta tới lần thứ ba.
Tên thật của cô ta là Alysane Nhà Mormont, nhưng cô ta chấp nhận cái tên còn lại cũng dễ dàng như việc mặc giáp. Lùn, mập và cơ bắp, người thừa kế đảo Bear có cặp đùi vĩ đại, cặρ √υ" vĩ đại và đôi tay cũng vĩ đại với những vết chai lồi lõm. Ngay cả trong giấc ngủ cô ta cũng mặc giáp bên dưới áo lông, da thuộc bên dưới bộ giáp, và da cừu bên dưới tấm da thuộc, mặt phải lộn vào trong cho ấm. Quần áo tầng tầng lớp lớp khiến bề ngang và chiều cao của cô ta gần như bằng nhau. Và trông dữ tợn. Đôi khi, Asha Greyjoy thấy khó mà tin được tuổi của Gấu Cái chỉ xấp xỉ cô.
“Anh ta muốn có đất đai của tôi,” Asha trả lời. “Anh ta muốn có Quần đảo Iron.” Cô biết những dấu hiệu. Cô cũng nhìn thấy những điều tương tự ở những kẻ khác theo đuổi cô. Đất đai của tổ tiên Massey ở phía nam đã mất, vì thế anh ta cần một cuộc hôn nhân có lợi cho mình hoặc chấp nhận chỉ là một hiệp sĩ trong hoàng tộc. Stannis đã dập tắt mọi hy vọng kết hôn với công chúa du mục của Ser Justin, theo những gì Asha liên tục được nghe, vì thế giờ này anh ta đặt hy vọng vào cô. Chắc chắn anh ta hy vọng cho cô ngồi lên Ngai Đá Biển ở Pyke và cai trị thông qua cô, với tư cách một người chồng. Như vậy có nghĩa là anh ta sẽ phải trừ khử lãnh chúa chồng cô hiện tại… chưa kể ông chú đã ban cho họ cuộc hôn nhân đó. Khó lắm, Asha nhận định. Mắt Quạ có thể thịt Ser Justin làm bữa sáng một cách dễ dàng mà không ợ hơi lần nào.
Nhưng có gì khác biệt đâu. Đất đai của cha cô sẽ không bao giờ là của cô, dù có lấy ai đi nữa. Người sắt không dễ tha thứ, và Asha đã bị đánh bại hai lần. Một lần ở lễ bầu vương của chú Euron, và một lần nữa ở Deepwood Motte dưới tay Stannis. Quá đủ để chứng minh cô không có tài cai trị. Dù cưới Justin Massey hay bất cứ lãnh chúa nào của Stannis Baratheon, cô cũng sẽ thiệt nhiều hơn lợi. Con gái của thủy quái kraken cuối cùng cũng chỉ là ả đàn bà, các thuyền trưởng và tiểu vương sẽ nói như vậy. Nhìn cái cách cô ta dạng háng cho tên lãnh chúa nhu nhược vùng đồng bằng kia mà xem.
Tuy nhiên, nếu Ser Justin muốn tán tỉnh cô bằng thức ăn, rượu và lời nói thì Asha không từ chối. Anh ta là kẻ đồng hành dễ chịu hơn con Gấu Cái lầm lì kia, nếu không, cô sẽ đơn độc giữa năm nghìn quân địch. Tris Botley, Qarl Thiếu Nữ, Cromm, Roggon, và những người còn lại trong đội quân thương tật của cô đã bị bỏ lại Deepwood Motte, trong hầm ngục của Galbart Glover.
Ngày đầu tiên, đoàn quân đi được 22 dặm, theo nhẩm tính của những người dẫn đường mà phu nhân Sybelle cho họ, các thợ săn trung thành của Nhà Deepwood
thuộc các bộ tộc như Forrester, Woods, Branch và Bole. Ngày thứ hai họ đi được hai mươi tư dặm, đội quân tiên phong của họ đã ra được khỏi vùng đất của Glover và tiến vào khu rừng sói rậm rạp. “Thần R’hllor, hãy cho lửa của người dẫn đường cho chúng con qua vùng bóng tối ảm đạm này,” đêm hôm đó, những người theo đạo tụ tập quanh một lò lửa bên ngoài lều của nhà vua và cầu nguyện. Lũ hiệp sĩ và kỵ binh hạng nặng người phương nam. Asha tưởng đó là người của nhà vua, nhưng những người khác vùng Stormlands và Crownlands gọi họ là người của hoàng hậu… dù bà hoàng hậu họ đi theo là nữ tu đỏ ở Hắc Thành, không phải người vợ mà Stannis Baratheon để lại ở Trạm-Đông-Bên-Bờ-Biển. “Hỡi Thần Ánh Sáng, chúng con van xin ngài, hãy hướng con mắt lửa của ngài xuống đây và bảo vệ chúng con an toàn, ấm áp,” họ hát bên ngọn lửa, “vì màn đêm tối tăm và đầy rẫy nỗi kinh hoàng.”
Một hiệp sĩ cao to tên là Ser Godry Farring hướng dẫn bọn họ. Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ. Một cái tên đao to búa lớn dành cho một người đàn ông nhỏ bé. Farring có khuôn ngực rộng và cơ bắp khá lực lưỡng bên dưới lớp áo giáp. Trong mắt Asha, hắn còn là kẻ kiêu căng tự đắc, khao khát vinh quang và vô cùng liều mạng, tham lời khen, khinh thường dân đen, sói phương bắc và phụ nữ. Tóm lại, hắn chẳng khác gì vị vua của mình.
“Cho tôi cưỡi ngựa đi,” Asha hỏi Ser Justin khi anh tiến lên cạnh chiếc xe ngựa của cô với nửa bắp đùi lợn. “Ở trong xiềng xích mãi tôi sắp phát điên rồi. Tôi sẽ không cố chạy trốn đâu. Tôi hứa với anh như vậy.”
“Tôi rất sẵn lòng nếu có thể, tiểu thư ạ. Nhưng cô là tù binh của nhà vua chứ không phải của tôi.”
“Nhưng nhà vua của anh sẽ không tin lời phụ nữ.”
Gấu Cái gầm gừ. “Tại sao chúng ta phải tin lời người sắt sau những gì em trai cô đã làm ở Winterfell?”
“Tôi không phải Theon,” Asha quả quyết… nhưng xiềng xích vẫn ở nguyên đó.
Khi Ser Justin cưỡi ngựa xuống cuối đoàn người, cô nhớ lại lần cuối cùng gặp mẹ. Hồi đó là ở Harlaw, tại Mười Tòa Tháp. Một ngọn nến cháy leo lét trong phòng mẹ cô, nhưng chiếc giường lớn chạm trổ của bà trống không bên dưới tấm màn bụi bặm. Phu nhân Alannys ngồi bên cửa sổ, mắt nhìn xa xăm về phía bên kia bờ biển. “Con có đem con trai bé bỏng của ta về không?” Bà hỏi, miệng run run. “Theon không đến được,” Asha nói và cúi nhìn người phụ nữ tàn tạ trước đây đã sinh ra cô, một người mẹ đã mất hai người con trai. Và đứa thứ ba…
Ta gửi cho mỗi người các ngươi một mảnh của hoàng tử.
Dù chuyện gì xảy ra trong cuộc chiến tại Winterfell thì Asha Greyjoy cũng không tin
em trai cô có thể sống sót. Theon Phản Bội. Ngay cả Gấu Cái cũng muốn treo đầu cậu ấy lên ngọn giáo.
“Cô có anh hay em trai không?” Asha hỏi người canh giữ mình.
“Có chị em gái,” Alysane Mormont trả lời, cộc cằn như thường lệ. “Năm chị em tất cả. Đều là con gái. Lyanna đang ở đảo Bear. Lyra và Jory ở với mẹ. Dacey bị gϊếŧ.”
“Trong Đám Cưới Đỏ.”
“Đúng.” Alysane nhìn chằm chằm Asha một lúc. “Ta có một cậu con trai. Nó mới hai tuổi. Con gái ta chín tuổi.”
“Cô sinh con sớm nhỉ.”
“Hơi sớm quá. Nhưng còn hơn là quá muộn.”
Lại đâm chọc ta ư, Asha nghĩ, nhưng có hề gì. “Cô lấy chồng rồi à.”
“Không. Bố của các con ta là một con gấu.” Alysane mỉm cười. Hàm răng cô ta khấp khểnh, nhưng nụ cười đó có phần dễ mến. “Phụ nữ Nhà Mormont là những kẻ đội lốt. Chúng ta biến thành gấu và tìm bạn tình ở trong rừng. Tất cả mọi người đều biết điều đó.”
Asha mỉm cười đáp lại. “Phụ nữ Nhà Mormont cũng đều là chiến binh.”
Nụ cười trên mặt người phụ nữ còn lại lụi dần. “Bởi các ngươi khiến chúng ta trở thành như vậy. Trên đảo Bear, mọi đứa trẻ đều biết sợ thủy quái kraken trồi lên từ biển.”
Phong Tục Cũ. Asha quay mặt đi, xích sắt khẽ rung lên leng keng. Đến ngày thứ ba, rừng rậm đã bao lấy họ, và con đường mòn co lại thành một lối đi nhỏ đến mức xe ngựa lớn của họ không qua nổi. Thỉnh thoảng họ đi qua những khung cảnh quen thuộc: một ngọn đồi đá trông hơi giống đầu sói khi nhìn ở một góc nhất định, một thác nước gần như đóng băng, một vòm đá tự nhiên phủ đầy rêu màu xanh xám. Asha biết tất cả những thứ đó. Cô đã đi trên con đường này, tới Winterfell để thuyết phục Theon từ bỏ cuộc chinh phạt của cậu ta và cùng cô trở về Deepwood Motte một cách an toàn. Cả việc đó ta cũng không thành công.
Ngày hôm đó, họ mừng rỡ vì đi được 14 dặm.
Khi hoàng hôn buông xuống, người đánh xe tấp chiếc xe ngựa vào một gốc cây. Khi anh ta đang tháo ngựa ra khỏi dây, Ser Justin cưỡi ngựa tiến lên và cởi chiếc cùm quanh cổ chân Asha. Anh ta và Gấu Cái hộ tống cô băng qua trại lính và tới lều của nhà vua. Cô có thể là con tin thật, nhưng cô vẫn là người Nhà Greyjoy của Đảo Pyke, và Stannis Baratheon muốn cho cô ăn mấy mẩu đầu thừa đuôi thẹo trên bàn ăn của
mình, nơi ông ăn tối với các đội trưởng và chỉ huy.
Lều của nhà vua rộng gần bằng sảnh dài ở Deepwood Motte, nhưng ngoài kích cỡ ra thì căn lều chẳng có gì đáng nói. Những bức tường bằng vải bạt vàng nặng nề và cứng nhắc đã bạc hết màu và vấy bẩn bởi bùn và nước, những vết nấm mốc cũng lộ ra. Trên chốc cây cột chống ở giữa là lá cờ hoàng gia bay phấp phới, lá cờ vàng với đầu con hươu bên trong một trái tim rực cháy. Ba phía còn lại của căn lều là lều của các lãnh chúa phương nam đã tiến lên phương bắc cùng Stannis. Phía thứ tư là một đống lửa đêm đang cháy, những ngọn lửa cuộn xoáy lên bầu trời đang mỗi lúc một tối dần.
Hơn chục người đang chẻ các khúc gỗ để thêm củi vào ngọn lửa khi Asha tập tễnh bước tới cùng hai người trông giữ cô. Người của hoàng hậu. Vị thần của họ là R’hllor Đỏ, và ông ta là một vị thần hay ghen tị. Vị thần của cô, Thần Chết Chìm của Quần đảo Iron, là một con quỷ trong mắt họ, và nếu cô không chịu tôn thờ vị Thần Ánh Sáng này, cô sẽ bị đày đọa và chịu số phận bi đát. Họ cũng sẽ vui vẻ thiêu ta như những khúc gỗ và cành củi khô kia. Một số kẻ còn hối thúc chuyện đó ngay trước mặt cô sau trận chiến trong rừng. Nhưng Stannis từ chối.
Nhà vua đang ở bên ngoài lều, đứng nhìn đống lửa. Ông ta nhìn thấy gì ở đó? Chiến thắng ư? Hay cái chết? Hay khuôn mặt vị thần đỏ đói khát của ông ta? Đôi mắt ông ta trông như hai chiếc hố sâu đen thẳm, bộ râu cắt ngắn trông chỉ như một vệt tối trên đôi má hóp và chiếc cằm xương xẩu. Tuy vậy, trong cái nhìn của ông ta vẫn ẩn chứa sức mạnh, vẻ hung tợn và sắt đá đó nói với Asha rằng người đàn ông này sẽ không bao giờ quay đầu và từ bỏ mục tiêu.
Cô quỳ xuống trước mặt ông. “Thưa bệ hạ.” Ta thế này đã đủ khiêm tốn trước ngươi chưa? Ta bị đánh đập, quỳ gối và tiều tụy thế này ngươi đã thấy hả dạ chưa? “Xin ngài hãy tháo xiềng xích ra khỏi cổ tay tôi. Hãy để tôi cưỡi ngựa. Tôi sẽ không chạy trốn đâu.”
Stannis nhìn cô như thể nhìn một con chó đang cố nhảy lên chân ông. “Ngươi tự chuốc lấy đấy chứ.”
“Tôi biết. Giờ tôi dâng lên ngài người của tôi, thuyền của tôi, và trí lực của tôi.”
“Thuyền của ngươi là của ta, hoặc là đã bị đốt. Người của ngươi… liệu còn lại bao nhiêu? Mười? Mười hai?”
Chín. Sáu, nếu chỉ đếm những người đủ khỏe mạnh để chiến đấu. “Dagmer Hàm Ếch đang trấn thủ Torrhen’s Square. Một chiến binh gan dạ, và là bề tôi trung thành của Nhà Greyjoy. Tôi sẽ dâng cho ngài tòa lâu đài đó và toàn bộ quân đồn trú.” Cô định nói là có thể, nhưng không nên thể hiện sự hoài nghi trước mặt vị vua này.
“Torrhen’s Square chẳng đáng giá bằng chỗ bùn dưới chân ta. Thứ ta cần là Winterfell kia.”
“Vậy hãy tháo còng cho tôi và để tôi giúp ngài chiếm nó, thưa bệ hạ. Anh trai vĩ đại của ngài nổi tiếng vì khả năng biến thù thành bạn. Hãy để tôi trở thành chiến binh của ngài.”
“Các vị thần còn không cho ngươi làm đàn ông được thì sao ta có thể?” Stannis quay lại nhìn những ngọn lửa màu cam và bất cứ ảo ảnh nào đang nhảy nhót trong đó.
Ser Justin Massey nắm cánh tay Asha và kéo cô vào trong lều hoàng gia. “Không nên nói như vậy, tiểu thư ạ,” anh ta nói. “Đừng bao giờ nhắc đến Robert trước mặt ông ấy.”
Lẽ ra mình nên biết điều đó. Asha hiểu những cậu em trai phải chịu áp lực như thế nào. Cô nhớ lại khi Theon còn là một thằng nhóc, một đứa trẻ nhút nhát sống trong kính nể và sợ hãi trước Rodrik và Maron. Và họ không bao giờ thoát khỏi cảm giác đó. Dù có sống đến trăm tuổi thì em trai vẫn là em trai. Cô lắc món trang sức bằng sắt của mình kêu leng keng và tưởng tượng ra cảnh cô lẻn đến sau lưng Stannis và thắt cổ ông ta bằng sợi xích đang trói chặt lấy cổ tay này.
Đêm đó họ ăn món thịt hầm nấu từ con hươu gầy nhẳng mà tên lính trinh sát tên Benjicot Branch hạ được. Nhưng chỉ trong lều của hoàng gia. Bên ngoài những bức tường vải bạt đó, mỗi người chỉ được một mẩu bánh mì và một đoạn xúc xích đen dài chưa tới một ngón tay, đồ uống đi kèm là những giọt bia cuối cùng của Galbart Glover.
Deepwood Motte cách Winterfell 300 dặm. Ba trăm dặm đường quạ bay. “Ước gì chúng ta là quạ,” Justin Massey nói trong ngày hành quân thứ tư, ngày tuyết bắt đầu rơi. Ban đầu chỉ là vài trận mưa tuyết nhỏ bất chợt. Lạnh lẽo và ẩm ướt, nhưng họ vẫn có thể đi qua được dễ dàng.
Nhưng tuyết vẫn tiếp tục rơi ngày tiếp theo, ngày tiếp theo, và ngày tiếp theo nữa. Bộ râu rậm rạp của đám sói phương bắc nhanh chóng biến thành băng giá, hơi thở của họ cũng đóng băng, các cậu nhóc mày râu nhẵn nhụi của phương nam bắt đầu để ria để giữ ấm cho khuôn mặt. Chẳng mấy chốc, mặt đất phía trước đoàn người đã bị phủ dưới một tấm chăn tuyết trắng xóa, mọi tảng đá, rễ cây và bẫy thú đều bị che lấp, khiến mỗi bước đi trở thành một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Gió cũng mạnh dần và thổi tuyết cuộn lên. Đội quân của nhà vua trở thành một đoàn người tuyết, chật vật đi qua vùng tuyết phủ đến tận đầu gối.
Đến ngày tuyết rơi thứ ba, đội quân của nhà vua bắt đầu trở nên rời rạc. Trong khi các lãnh chúa, hiệp sĩ phương nam hành quân chật vật thì người phương bắc đi nhanh
hơn nhiều. Ngựa nhỏ của họ vừa vững chân hơn, vừa ăn ít hơn loại ngựa bình thường và lại càng ít hơn nữa so với những con chiến mã vĩ đại; ngoài ra, những người cưỡi chúng đều là cư dân của vùng đất phủ tuyết này. Nhiều con sói đi giày rất lạ. Họ gọi chúng là Móng Gấu, những vật hình thon dài kỳ cục được làm bằng gỗ bẻ cong và các sợi dây da. Khi được buộc vào đế giày, bằng cách nào đó chúng giúp họ đi lại trên tuyết mà không làm vỡ bề mặt phía trên, do đó không bị lún và ngập sâu trong tuyết đến tận bắp đùi.
Một số đóng cả móng gấu cho ngựa, và những con ngựa nhỏ bờm xờm có thể đeo chúng dễ dàng như những con khác đeo móng sắt… nhưng các loại ngựa thường và chiến mã không thích chúng. Khi một vài hiệp sĩ của nhà vua cố buộc chúng và chân lũ ngựa, các con ngựa lớn của miền nam không chịu di chuyển nữa hoặc cố giũ thứ đó ra khỏi chân. Một con chiến mã bị vỡ mắt cá chân khi cố đi trên chúng.
Với móng gấu, người phương bắc nhanh chóng bỏ xa phần còn lại của đội quân. Họ vượt lên trên các hiệp sĩ trong đoàn quân chính, sau đó là Ser Godry Farring và lính tiên phong. Trong khi đó, các cỗ xe ngựa, xe kéo của đoàn chở hành lý ngày càng bị tụt lại phía sau, đến nỗi quân hậu phòng phải liên tục thúc họ đi nhanh hơn.
Ngày thứ năm trong cơn bão, đoàn người chở hành lý đi qua một vùng rộng bao la, tuyết cao đến tận eo phủ trên mặt một hồ nước đóng băng. Khi lớp băng ẩn bên dưới vỡ ra dưới sức nặng của xe ngựa, ba người đánh xe và bốn con ngựa bị nước đóng băng phía dưới nuốt chửng, kéo theo cả hai người cố giải cứu họ. Một trong số đó là Harwood Fell. Các hiệp sĩ của ông kéo được Harwood lên trước khi ông chết đuối, nhưng môi ông đã kịp chuyển sang màu xanh và da trắng bệch như sữa. Dù họ cố gắng thế nào cũng không thể làm cho người ông ấm lên được nữa. Ông ta run rẩy bốn tiếng đồng hồ sau đó, dù họ đã thay bộ quần áo ướt, bọc ông trong lông thú và để ông ngồi bên ngọn lửa. Đêm đó ông ngủ trong cơn sốt cao. Và không bao giờ tỉnh dậy nữa.
Đó là đêm đầu tiên Asha nghe thấy người của hoàng hậu rì rầm bàn với nhau về một lễ hiến tế lên vị thần đỏ của họ, để ông ta kết thúc cơn bão tuyết. “Các vị thần phương bắc cử cơn gió này đến hại ta,” Ser Corliss Penny nói.
“Các vị thần giả tạo,” Ser Godry, Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ khăng khăng. “R’hllor luôn ở bên chúng ta,” Ser Clayton Suggs nói.
“Melisandre thì không,” Justin Massey nói.
Nhà vua không nói gì. Nhưng ông nghe thấy. Asha chắc chắn điều đó. Ông ngồi trên chiếc bàn cao khi bát súp hành nguội dần trước mặt, ông hầu như không ăn chút nào, mắt nhìn đăm đăm vào ngọn nến gần nhất bằng đôi mắt sâu hoắm, bỏ ngoài tai mọi câu chuyện xung quanh. Phó chỉ huy, vị hiệp sĩ cao gầy tên là Richard Horpe nói
với nhà vua. “Cơn bão sắp tan rồi,” ông ta tuyên bố.
Nhưng cơn bão chỉ ngày càng tồi tệ hơn. Gió bắt đầu quất một cách tàn khốc như bất cứ cây roi nào của bọn chủ nô. Asha tưởng cái lạnh ở Pyke đã là kinh khủng, khi gió từ biển gào rú tràn vào, nhưng chúng vẫn chẳng là gì so với ở đây. Đây là cái lạnh có thể khiến con người phát điên.
Ngay cả khi lệnh dựng trại được truyền xuống, để giữ ấm bản thân cũng không phải là việc dễ dàng. Các lều trại đều ẩm ướt và nặng trịch nên rất khó để dựng lên, lại càng khó để dỡ xuống. Và chúng có thể đổ sập bất cứ lúc nào nếu tuyết chất đống quá nhiều trên nóc. Quân đội của nhà vua bò qua chính giữa khu rừng rậm rạp nhất trên Bảy Phụ Quốc, nhưng củi khô vẫn vô cùng khó kiếm. Mọi trại lính đều đốt ít lửa hơn, và các đống lửa cũng bốc lên nhiều khói hơn là nhiệt. Họ thường ăn thức ăn lạnh, thậm chí là ăn sống.
Ngay cả ngọn lửa đêm cũng trở nên yếu ớt trong sự bất an của đám người của hoàng hậu. “Thần Ánh Sáng, xin người hãy bảo vệ chúng con khỏi quỷ dữ,” họ cầu nguyện theo giọng nói trầm trầm của Ser Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ. “Xin hãy chỉ đường cho chúng con đến với mặt trời rực rỡ một lần nữa, dừng những cơn gió này lại và cho tuyết tan đi, giúp chúng con tới được chỗ kẻ thù và đánh bại chúng. Màn đêm tối tăm, lạnh lẽo và đầy rẫy nỗi kinh hoàng, nhưng ngài là sức mạnh, là vinh quang và là ánh sáng. R’hllor, xin hãy chiếu soi cho chúng con bằng ngọn lửa của người.”
Sau đó, khi Ser Corliss Penny tự hỏi liệu cả một đội quân có thể bị chết cóng trong bão tuyết mùa đông hay không, lũ sói phá lên cười. “Đây chưa phải là mùa đông đâu,” Wull Xô Lớn tuyên bố. “Ở trên đồi, chúng ta vẫn nói đùa rằng mùa thu hôn ngươi, nhưng mùa đông sẽ làʍ t̠ìиɦ với các ngươi mệt nghỉ. Đây mới chỉ là nụ hôn của mùa thu thôi.”
Vậy thì cầu xin thần linh đừng cho con nếm cái lạnh của mùa đông. Asha không bị cái lạnh hành hạ nhiều, bởi ít nhiều cô cũng là chiến lợi phẩm của nhà vua. Cô vẫn được ăn trong khi người khác đói khát. Cô được ấm áp trong khi những kẻ còn lại run lên vì lạnh. Khi những kẻ khác chật vật trong tuyết trên lưng những con ngựa kiệt sức thì cô ngồi trên lông thú bên trong chiếc xe ngựa kéo có mái bạt che đầu, thoải mái trong cùm xích.
Lũ ngựa và lính quèn là khổ nhất. Hai cận vệ vùng Stormland đâm chết một kỵ binh hạng nặng vì giành nhau chỗ ngồi gần ngọn lửa. Đêm tiếp theo, vài cung thủ thèm được sưởi đến nỗi họ đốt căn lều của mình, để ít nhất cũng sưởi ấm được các căn lều bên cạnh. Đám chiến mã bắt đầu chết vì kiệt sức và giá lạnh. “Hiệp sĩ mà không có ngựa thì gọi là gì nhỉ?” Mọi người đố nhau. “Gọi là người tuyết cầm kiếm.” Mỗi con ngựa ngã quỵ đều được gϊếŧ ngay tại chỗ để lấy thịt. Lương thực dự trữ của họ cũng đã
vơi gần hết.
Peasebury, Cobb, Foxglove cùng các lãnh chúa phương nam khác thúc giục nhà vua hạ trại cho đến khi cơn bão đi qua. Nhưng Stannis không chịu nghe. Ông cũng không để tâm đến người của hoàng hậu khi họ giục ông hiến tế cho vị thần đỏ đói khát của họ.
Cô đã nghe chuyện đó từ Justin Massey, kẻ ít sùng đạo hơn cả. “Một vật hiến tế sẽ chứng minh niềm tin của chúng ta vẫn đang rực cháy, thưa bệ hạ,” Clayton Suggs nói với nhà vua. Và Godry Kẻ Gϊếŧ Người Khổng Lồ nói, “Các vị cựu thần phương bắc đã cử cơn bão này đến chỗ chúng ta. Chỉ có thần R’hllor mới có thể chấm dứt nó thôi. Chúng ta cần hiến tế cho ngài ấy một người vô tín ngưỡng.”
“Phân nửa đội quân của ta là những kẻ không sùng đạo,” Stannis trả lời. “Ta sẽ không cho thiêu cái gì hết. Hãy cầu nguyện chăm chỉ vào.”
Hôm nay và ngày mai không có ai bị thiêu cả… nhưng nếu tuyết tiếp tục rơi, nhà vua sẽ giữ vững lòng quyết tâm được bao lâu? Asha chưa bao giờ tin vào Thần Chết Chìm giống như chú Aeron của cô, nhưng đêm đó cô đã cầu nguyện tới Vị Thần Ngụ Dưới Đáy Nước một cách nồng nhiệt chẳng kém gì Damphair. Cơn bão không thuyên giảm chút nào. Cuộc hành quân vẫn tiếp tục, nhưng đã chậm lại đến mức lê lết, và sau đó là bò. Năm dặm một ngày đã là nhanh. Sau đó là ba. Rồi hai.
Đến ngày thứ chín của cơn bão, đội trưởng và chỉ huy của các khu trại thi nhau vào lều của nhà vua trong bộ dạng ướt nhẹp và mệt mỏi, chỉ để quỳ gối và báo cáo những mất mát của họ trong ngày.
“Một người chết, ba người mất tích.”
“Mất sáu con ngựa, một trong số đó là ngựa của thần.”
“Hai người chết, trong đó có một hiệp sĩ. Bốn con ngựa ngã quỵ. Chúng thần cứu lại được một con. Số còn lại đã mất. Chỉ có một ngựa nhỏ, còn lại là chiến mã.”
Theo những gì Asha nghe được, họ gọi đó là “Báo cáo tổng hợp số người chết cóng”. Đoàn chở hành lý bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất: ngựa chết, người mất tích, xe ngựa lật và gãy nát. “Ngựa thì bị sa lầy trong tuyết,” Justin Massey nói với nhà vua. “Người thì đi lang thang hoặc ngồi lại để chờ chết.”
“Kệ họ,” vua Stannis quát. “Chúng ta cứ đi tiếp.”
Với ngựa nhỏ và móng gấu, người phương bắc đi nhanh hơn nhiều. Black Donnel Flint và người anh em cùng cha khác mẹ Artos chỉ để mất một người đi giữa họ. Bộ tộc Liddle, bộ tộc Wull và bộ tộc Norrey không để mất một người nào. Một con la của Morgan Liddle đi lạc đường, nhưng ông ta nghi ngờ người Nhà Flint ăn cắp nó.
300 dặm từ Deepwood Motte tới Winterfell. Ba trăm dặm đường quạ bay. Mười lăm ngày di chuyển. Mười lăm ngày hành quân cứ dần trôi qua, và họ vẫn chưa đi được nửa đoạn đường. Trải dài phía sau họ là dấu tích của xe ngựa gãy và những xác chết đóng băng chôn vùi trong tuyết lạnh. Đã lâu lắm rồi họ không nhìn thấy mặt trời lẫn trăng sao, đến nỗi Asha bắt đầu tự hỏi hay là trước kia chúng chỉ xuất hiện trong những giấc mơ.
Vào ngày thứ hai mươi của cuộc hành quân, cuối cùng cô cũng được tháo cùm chân. Chiều muộn hôm đó, một trong những con ngựa kéo chiếc xe của cô gục chết. Chẳng có gì để thay thế, số ngựa kéo còn lại phải dùng để kéo các cỗ xe chở lương thực và cỏ khô. Khi Ser Justin Massey cưỡi ngựa tiến lên, ông bảo họ xẻ thịt con ngựa để lấy thịt và phá chiếc xe ra lấy củi đốt. Sau đó ông tháo cùm quanh cổ chân Asha, xoa bắp chân cho cô để chúng khỏi tê cứng. “Tôi không có ngựa để cho cô cưỡi,” ông nói, “và nếu hai người cùng cưỡi thì ngựa của tôi cũng tiêu đời. Cô phải đi bộ rồi.”
Dưới sức nặng của cô, mắt cá chân Asha nhức nhối với mỗi bước đi. Cái lạnh sẽ nhanh chóng khiến chân ta tê dại, cô tự nhủ. Chỉ sau một tiếng thôi chân mình sẽ không còn cảm giác gì nữa. Và cô chỉ sai ở một điểm duy nhất; cô không mất nhiều thời gian đến vậy. Khi đoàn người dừng lại vì trời tối, Asha đang loạng choạng bước, và lúc này cô mới thấy thèm khát cái nhà tù di động của mình hơn bao giờ hết. Cùm sắt làm ta yếu ớt hẳn đi. Cô kiệt sức đến nỗi ngủ gật trên bàn trong bữa tối.
Vào ngày thứ hai mươi sáu của cuộc hành quân mười lăm ngày, họ ăn đến cọng rau cuối cùng. Vào ngày thứ ba mươi hai, ngũ cốc và cỏ khô cũng hết. Asha tự hỏi con người có thể sống được bao lâu nếu chỉ ăn thịt ngựa sống và gần như đông cứng.
“Branch thề chúng ta chỉ còn cách Winterfell có ba ngày đường,” Ser Richard Horpe nói với nhà vua trong đêm hôm đó sau bản báo cáo tổng hợp số người chết cóng.
“Nếu chúng ta để những người yếu ớt nhất ở lại,” Corliss Penny nói.
“Những người yếu nhất không thể cứu được nữa rồi,” Horpe khẳng định. “Những người khỏe hơn phải đến được Winterfell, hoặc là cũng sẽ chết.”
“Thần Ánh Sáng sẽ cho chúng ta lấy được tòa lâu đài,” Ser Godry Farring nói. “Nếu quý cô Melisandre ở đây với chúng ta…”
Cuối cùng, sau một ngày dài như ác mộng, đoàn người tiến lên chưa nổi một dặm nhưng đã mất mười hai con ngựa và bốn người. Lãnh chúa Peasebury quay sang đổ lỗi cho người phương bắc. “Cuộc hành quân này là việc điên rồ. Mỗi ngày lại có thêm người chết, là vì cái gì chứ? Vì một đứa con gái thôi sao?”
“Con gái Ned,” Morgan Liddle nói. Ông là người con thứ hai trong số ba anh em
trai, vì thế các con sói khác gọi ông là Liddle Giữa, dù không nói trước mặt ông. Chính Morgan là người suýt gϊếŧ chết Asha trong trận chiến ở Deepwood Motte. Sau này trong cuộc hành quân, ông đã đến gặp cô xin tha lỗi… vì đã gọi cô là đĩ điếm trong cơn say chém gϊếŧ, nhưng không xin lỗi về chuyện ông cố dùng rìu bổ đôi đầu cô.
“Con gái của Ned,” Wull Xô Lớn nhắc lại. “Đáng lẽ giờ này chúng ta phải có được cả cô bé lẫn tòa lâu đài rồi, chỉ tại đám ranh con phương nam các ngươi mới nhìn thấy có tí tuyết đã vãi đái ra quần.”
“Một tí tuyết?” Đôi môi mềm mại như con gái của Peasebury cong lên giận dữ. “Wull, chính lời khuyên chết tiệt của ông mới khiến chúng ta phải hành quân khổ sở thế này. Tôi bắt đầu nghi ngờ ông là gián điệp của Bolton trong suốt thời gian qua. Có đúng thế không? Có phải hắn cử ông đến thầm thì vào tai nhà vua những lời độc hại?”
Xô Lớn phá lên cười. “Lãnh chúa Vỏ Đậu, nếu ngươi là đàn ông thì ta sẽ gϊếŧ ngươi vì câu nói vừa rồi, nhưng kiếm của ta được làm bằng thép cực kỳ tốt, ta không muốn bôi bẩn nó bằng máu của một kẻ hèn nhát như ngươi.” Ông uống một hớp rượu và lau miệng. “Đúng, mọi người đang chết dần. Sẽ còn nhiều người chết nữa trước khi chúng ta nhìn thấy Winterfell. Nhưng thế thì sao? Đây là chiến tranh. Chiến tranh là phải có người chết. Phải như vậy, và luôn là như vậy.”
Ser Corliss Penny liếc nhìn vị tộc trưởng vẻ hoài nghi. “Ông có muốn chết không, Wull?”
Câu hỏi dường như khiến gã người phương bắc thích thú. “Ta muốn sống mãi trên mảnh đất nơi mùa hè kéo dài hàng nghìn năm. Ta muốn một tòa lâu đài trên mây nơi ta có thể nhìn xuống hạ giới. Ta muốn được quay trở lại tuổi hai sáu. Khi 26 tuổi, ta có thể đánh nhau cả ngày và làʍ t̠ìиɦ cả đêm. Nhưng những gì con người muốn không quan trọng.
Mùa đông đang đến gần lắm rồi, các nhóc ạ. Và mùa đông đồng nghĩa với chết chóc. Ta thà để người của ta chết để cứu con gái nhỏ của Ned còn hơn chết trong cô đơn và đói khát trong tuyết lạnh, khi nước mắt chưa kịp lăn xuống đã đông cứng luôn trên má. Chẳng ai hát về những kẻ chết như vậy cả. Ta đã già rồi. Đây sẽ là mùa đông cuối cùng của ta. Hãy để ta tắm trong máu của Bolton trước khi chết. Ta muốn được cảm nhận nó bắn lên mặt khi chiếc rìu của ta bổ ngập vào sọ một gã Nhà Bolton. Ta muốn liếʍ máu trên môi và chết với vị của nó còn đọng trên lưỡi.”
“Đúng!” Morgan Liddle kêu to. “Máu và chiến đấu!” Sau đó tất cả các tộc người trên núi cùng hò hét, đập chén và cốc sừng xuống bàn, làm náo động cả căn lều của nhà vua.
Bản thân Asha Greyjoy cũng muốn được đánh nhau. Một trận đấu duy nhất, để chấm dứt nỗi đau này. Thép chạm thép, tuyết biến thành màu hồng, khiên gãy và những cẳng chân, cẳng tay đứt rời, và thế là tất cả kết thúc.
Ngày tiếp theo, trinh sát của nhà vua tình cờ tìm thấy một ngôi làng bỏ hoang giữa hai hồ nước của các chủ trại nhỏ – một nơi tồi tàn và nghèo xơ xác, tất cả chỉ có vài túp lều, một căn sảnh dài và một tháp canh. Richard Horpe yêu cầu đoàn người dừng lại, dù ngày hôm qua họ hành quân chưa được nửa dặm và còn vài giờ nữa trời mới tối. Sau khi mặt trăng lên một lúc lâu, đoàn hành lý và các vệ binh phía sau mới đến nơi. Asha là một trong số họ.
“Trong hồ vẫn có cá,” Horpe bảo nhà vua. “Chúng ta sẽ khoan lỗ trên băng. Người phương bắc biết cách làm đấy.”
Ngay cả khi khoác áo choàng lông đồ sộ và bộ áo giáp nặng nề, Stannis trông vẫn như người đàn ông một bước nữa là xuống mộ. Chút da thịt còn lại trên cơ thể gầy trơ xương của ông hồi ở Deepwood Motte đã biến mất sạch trong cuộc hành quân. Sọ ông hiện rõ đằng sau lớp da đầu, hàm răng nghiến chặt đến nỗi Asha sợ răng ông sẽ vỡ tan. “Cá thì cá,” ông nói, mỗi từ bật ra trên môi rời rạc. “Nhưng chúng ta sẽ lên đường khi tia sáng đầu tiên xuất hiện.”
Tuy nhiên khi tia nắng đầu tiên xuất hiện, khu trại tỉnh dậy trong tuyết trắng và tĩnh lặng. Bầu trời chuyển từ đen sang trắng, nhưng chẳng sáng sủa hơn chút nào. Asha Greyjoy tỉnh dậy, co quắp và lạnh lẽo dưới đống chăn lông thú, bên tai là tiếng ngáy của Gấu Cái. Cô chưa từng thấy người phụ nữ nào ngáy to đến vậy, nhưng sau chừng đó thời gian hành quân, cô đã quen dần với nó và thậm chí còn thấy có phần dễ chịu. Chính sự tĩnh lặng mới làm cô phiền lòng. Chẳng có tiếng kèn trumpet giục mọi người lên ngựa, lập đội hình và chuẩn bị hành quân. Không có tiếng tù và triệu tập người phương bắc. Có cái gì đó bất thường.
Asha bò ra khỏi đống chăn lông và tìm đường ra khỏi lều. Cô hất đống tuyết bít chặt cửa lều trong đêm sang một bên. Xích sắt kêu leng keng khi cô đứng dậy và hít một hơi để cảm nhận cái lạnh của buổi bình minh. Tuyết vẫn đang rơi, thậm chí còn dày hơn khi cô bò vào trong lều. Các hồ nước biến mất, và cả cánh rừng cũng vậy. Cô vẫn nhìn thấy hình dáng của những chiếc lều và lán trại khác cùng ánh sáng màu cam lờ mờ của lửa hiệu cháy trên đỉnh tháp canh, nhưng tòa tháp thì không thấy đâu. Cơn bão đã nuốt hết tất cả.
Đâu đó phía trước, Roose Bolton đang đợi họ đằng sau tường thành Winterfell, nhưng đội quân của Stannis Baratheon vẫn tắc lại ở đây vì bão tuyết, bao quanh là tuyết rơi, băng giá và đói khát.