Trăng khuyết, mảnh và sắc như một lưỡi dao. Mặt trời lợt lạt cứ mọc rồi lặn, mọc rồi lặn. Lá đỏ rì rào trong gió. Mây đen phủ kín bầu trời rồi chuyển thành những cơn giông. Chớp lóe, sấm nổ, người chết với bàn tay đen và đôi mắt xanh lè lảng vảng quanh một khe nứt bên sườn đồi nhưng không tài nào vào được bên trong. Dưới chân đồi, cậu nhóc què quặt ngồi trên một chiếc ngai bằng gỗ đước, lắng nghe tiếng thì thầm trong bóng tối trong khi lũ quạ bò lên bò xuống trên hai cánh tay cậu.
“Cậu sẽ không bao giờ đi được nữa,” con quạ ba mắt hứa hẹn, “nhưng cậu sẽ bay.” Thỉnh thoảng bài hát ấy vẫn vọng lên từ một nơi nào đó phía dưới sâu hun hút. Già Nan sẽ gọi các ca sĩ đó là lũ trẻ rừng già, nhưng tên của họ là những người ca bài ca của đất, bằng thứ Ngôn Ngữ Thật mà người thường không nói được. Nhưng lũ quạ thì có. Đôi mắt đen nhỏ xíu của chúng chứa đầy những bí mật, chúng sẽ kêu quang quác và mổ vào da cậu mỗi khi những bài hát đó cất lên.
Mặt trăng tròn vành vạnh. Các vì sao trôi chậm rãi trên bầu trời đen như hắc ín. Mưa rơi, nước mưa đông cứng lại, các cành cây gẫy răng rắc dưới sức nặng của băng. Bran và Meera nghĩ ra những cái tên cho những người hát bài ca của đất: Tro, Lá, Vảy, Dao Đen, Tóc Bạc và Than Đá. Theo lời Lá thì tên của họ quá dài đối với con người. Chỉ có cô ta nói được tiếng phổ thông, nên Bran không bao giờ biết những người khác nghĩ thế nào về tên của họ.
Sau cái lạnh thấu xương của vùng đất phía bên kia Tường Thành, hang động trở thành nơi vô cùng ấm áp, và khi cái lạnh từ vách đá tỏa ra, các ca sĩ sẽ đốt lửa để xua nó đi. Dưới này không có gió, không có tuyết, không có đám xác sống giơ tay ra túm lấy người, chỉ có những giấc mơ, ánh sáng yếu ớt và những nụ hôn của quạ. Cộng với tiếng thì thầm của bóng tối.
Các ca sĩ gọi ông ta là người cuối cùng nhìn thấy những giấc mơ xanh, nhưng trong những giấc mơ của Bran, ông ta vẫn là con quạ ba mắt. Khi Meera Reed hỏi tên thật của ông già, từ cổ họng ông phát ra một âm thanh ghê rợn mà cậu đoán là tiếng cười khúc khích. “Ta có rất nhiều tên thời chân tay còn nhanh nhẹn, nhưng ta từng có một người mẹ, và cái tên bà ấy đặt cho ta khi còn ẵm ngửa là Brynden.”
“Ông tôi cũng tên là Brynden,” Bran nói. “Thực ra đó là chú của mẹ. Brynden Cá Đen, người ta gọi ông ấy như vậy.”
“Có lẽ chú của cậu được đặt tên theo tên ta. Một số người vẫn làm như vậy. Nhưng không còn nhiều bằng trước đây. Con người đã lãng quên. Chỉ có những cái cây ghi nhớ.” Giọng ông già mảnh đến nỗi Bran phải căng tai ra mới nghe rõ được.
“Phần lớn cơ thể ông ấy đã hóa thành cây,” ca sĩ mà Meera gọi là Lá giải thích. “Dù đã vượt qua ngưỡng tử của loài người, nhưng ông ấy vẫn nấn ná ở lại. Vì chúng ta, vì cậu, vì vương quốc loài người. Da thịt ông ấy chỉ còn lại một chút sức lực thôi. Ông ấy có một ngàn lẻ một con mắt, nhưng phải quan sát quá nhiều thứ. Đến một ngày cậu sẽ hiểu.”
“Tôi sẽ hiểu điều gì?” Bran hỏi chị em Nhà Reed. Với cây đuốc sáng rực trên tay, họ tới để đưa cậu về căn phòng nhỏ đối diện chiếc hang lớn, nơi các ca sĩ đã chuẩn bị sẵn giường cho họ ngủ. “Và cây cối nhớ cái gì?”
“Bí mật của các cựu thần,” Jojen Reed nói. Nhờ thức ăn, lửa ấm và được nghỉ ngơi, cậu ta đã lại sức sau cuộc hành trình gian khổ, nhưng cậu ta có vẻ buồn bã, ủ dột hơn, ánh mắt cũng ẩn chứa vẻ lo lắng và sợ hãi. “Những sự thật mà Tiền Nhân biết và Winterfell đã quên… nhưng ở những nơi hoang vu ẩm ướt thì chưa. Chúng tôi sống gần rừng rậm, trong những đầm lầy vũng lội, nên chúng tôi vẫn nhớ. Mặt đất và mặt nước, đất và đá, sồi, du và liễu, chúng ở đây trước tất cả chúng ta và vẫn sẽ ở lại đây khi chúng ta qua đời.”
“Cậu cũng sẽ như vậy,” Meera nói, và Bran thấy buồn vì điều đó. Nếu tôi không muốn ở lại khi mọi người ra đi hết thì sao? Cậu suýt định hỏi như vậy, nhưng cuối cùng lại thôi. Cậu đã sắp là một người đàn ông trưởng thành, và cậu không muốn Meera nghĩ cậu là một thằng bé con mít ướt. “Có thể cô cũng có khả năng mơ những giấc mơ xanh,” thay vào đó cậu nói.
“Không đâu Bran.” Giọng Meera buồn bã.
“Chỉ có vài người được uống nước từ đài phun nước màu xanh đó trong khi vẫn ở hình dạng con người thôi. Chỉ họ mới có thể nghe được tiếng thì thầm của lá và nhìn thấy những gì cây cối và các vị thần nhìn thấy,” Jojen nói. “Phần lớn không may mắn như vậy. Các vị thần chỉ cho tôi khả năng nhìn thấy những giấc mơ xanh. Nhiệm vụ của tôi là đưa cậu đến đây. Phần việc của tôi kết thúc rồi.”
Mặt trăng giống như một hố đen trên bầu trời. Sói tru trong rừng và ngửi các đống tuyết để lần theo dấu con mồi. Một bầy quạ bay lên toán loạn từ sườn đồi và thét lên những tiếng chói tai, những đôi cánh đen đập lạch phạch trong không gian trắng toát. Mặt trời đỏ chót mọc, lặn, rồi lại mọc, để lại sắc hồng rực rỡ trên nền tuyết. Dưới chân đồi, Jojen ủ ê, Meera phiền não, còn Hodor lang thang trong những đường hầm tối với thanh kiếm trong tay phải và ngọn đuốc trong tay trái. Hay kẻ lang thang đó là Bran nhỉ?
Không được để cho ai biết điều đó.
Khu động lớn mở ra một vực sâu đen thăm thẳm như hắc ín, đen kịt như nhựa
đường, đen hơn cả lông lũ quạ đen. Ánh sáng len lỏi vào như giặc ngoại xâm, một kẻ không mời và không được ai chào đón, rồi lại nhanh chóng biến mất; bếp lửa, nến và cây bấc cháy một chút rồi lại dừng, lập lòe như những hơi thở cuối cùng.
Các ca sĩ làm cho Bran một chiếc ngai riêng, trông giống như chiếc mà Lãnh chúa Brynden vẫn ngồi. Chiếc ngai làm bằng gỗ đước trắng với những đốm màu đỏ, các cành cây khô đan vào nhau qua đám rễ cây sống. Họ đặt nó vào hang động lớn nhìn ra vực thẳm, nơi tiếng nước chảy từ tít sâu phía dưới vọng lên trong không gian đen đặc. Mặt ghế của cậu làm bằng rêu xanh mềm mại. Khi cậu đã ngồi yên vị vào chỗ, họ phủ lên người cậu những lớp lông thú ấm áp.
Cậu ngồi đó lắng nghe tiếng thì thầm khô khốc của thầy giáo. “Đừng bao giờ sợ hãi trước bóng tối, Bran.” Cành và lá cây khẽ xào xạc theo từng lời nói của vị lãnh chúa, đầu ông khẽ xoay. “Những cái cây mạnh mẽ nhất thường mọc rễ từ những nơi tối tăm trên trái đất. Bóng tối sẽ là áo choàng, là tấm khiên, là dòng sữa mẹ. Bóng tối sẽ làm cậu mạnh mẽ hơn.”
Mặt trăng lại khuyết, mảnh và sắc như một lưỡi dao. Những bông tuyết lặng lẽ rơi, phủ một lớp áo choàng trắng toát lên đám thông lính và sentinel. Tuyết rơi dày đến nỗi nó bịt kín lối vào động, tạo thành một bức tường trắng mà Mùa Hè phải đào xuyên qua mới có thể ra ngoài đi săn với bầy đàn của nó. Dạo này Bran thường không nhập bọn với chúng, nhưng có những đêm cậu quan sát chúng từ trên cao.
Bay vẫn tốt hơn trèo.
Chui vào thân xác Mùa Hè đã trở thành việc đơn giản như ngày xưa cậu mặc quần, hồi chân cậu vẫn còn lành lặn. Biến thành con quạ đen sì mới khó, nhưng không khó đến mức như cậu tưởng, nhất là với mấy con quạ này. “Một con ngựa hoang sẽ nhảy lên và đá khi có ai cố trèo lên lưng, cũng như sẽ cắn bất kỳ bàn tay nào đặt vào giữa hàm răng nó,” Lãnh chúa Brynden nói, “nhưng nếu đã quen được một người cưỡi trên lưng, nó sẽ chấp nhận cả những người khác. Dù già hay non, những con quạ đó đều đã quen hơi người. Hãy chọn lấy một con và bay đi.”
Cậu chọn con thứ nhất, rồi con thứ hai mà vẫn không thành công, nhưng con thứ ba nhìn cậu bằng đôi mắt đen lanh lợi, xoay đầu kêu quác quác, và nhanh chóng, cậu không còn là cậu bé đứng nhìn con quạ nữa, mà là con quạ đang nhìn cậu bé. Tiếng rì rầm của dòng sông bỗng trở nên sống động hơn, đuốc cháy sáng hơn bình thường, và không khí đầy những mùi lạ lẫm. Cậu cố cất tiếng nói nhưng chỉ có một tiếng thét phát ra. Chuyến bay đầu tiên kết thúc khi cậu đâm đầu vào một bức tường và quay trở lại thân thể tàn phế của mình. Con quạ không sao cả. Nó quay lại và đậu lên cánh tay cậu, Bran vuốt ve bộ lông nó và chui vào thân xác nó một lần nữa. Ngay lập tức cậu thấy mình đang bay quanh động, lượn giữa những chiếc răng bằng đá dài treo lủng
lẳng từ trên trần xuống, thậm chí đập cánh ngay phía trên vực thẳm và nhìn xuống khoảng không lạnh lẽo đen kịt phía dưới.
Sau đó cậu nhận ra cậu không chỉ có một mình. “Có ai đó cũng ở bên trong con quạ,” cậu nói với Lãnh chúa Brynden khi trở lại hình dạng con người. “Một cô gái. Tôi cảm nhận được cô ấy.”
“Là một trong số những phụ nữ ca bài ca của đất,” thầy giáo cậu nói. “Cô ta đã chết từ lâu, nhưng một phần của cô ta vẫn ở lại, giống như một phần của cậu sẽ ở lại thân xác Mùa Hè nếu sáng mai cậu qua đời. Một mảng tối của tâm hồn. Cô ấy sẽ không làm hại cậu đâu.”
“Mỗi con chim đều có một ca sĩ bên trong à?”
“Đúng, tất cả bọn chúng,” Lãnh chúa Brynden nói. “Chính các ca sĩ đã dạy Tiền Nhân cách gửi thông điệp bằng quạ… nhưng ngày nay, lũ quạ sẽ truyền lại thông tin bằng lời nói. Cây cối luôn ghi nhớ, nhưng con người dễ quên, và vì thế bây giờ họ viết thông điệp trên giấy da và buộc vào quanh chân những con chim mà họ chưa từng chia sẻ thân xác bao giờ.”
Bran nhớ Già Nan từng kể câu chuyện đó một lần, nhưng khi cậu hỏi Robb rằng đó có phải là sự thật hay không, anh trai cậu chỉ cười phá lên và hỏi cậu có tin cả những câu chuyện về ba bị nữa không. Cậu ước giờ này Robb ở đây với họ. Mình sẽ nói với anh ấy rằng mình biết bay, nhưng anh ấy sẽ không tin. Mình sẽ phải chỉ cách cho anh ấy. Chắc chắn anh ấy sẽ học được cách bay, cả Arya, Sansa, thậm chí bé Rickon và cả Jon Snow nữa. Tất cả chúng ta sẽ là quạ, cùng sống trong cái tổ của Maester Luwin.
Tuy nhiên đó chỉ là một giấc mơ ngu xuẩn. Có những ngày Bran tự hỏi nếu tất cả những gì đang xảy ra chỉ là một giấc mơ thì sao. Có thể cậu ngủ thϊếp đi trong tuyết lạnh và mơ về một nơi ấm áp, an toàn. Ngươi phải thức, cậu tự nhủ, ngươi phải thức dậy ngay đi, nếu không ngươi sẽ mê man đến chết. Một đôi lần cậu thử véo thật mạnh lên cánh tay, nhưng cậu chỉ thấy đau. Ban đầu cậu cố đếm ngày tháng bằng cách ghi lại những lúc cậu thức và ngủ, nhưng ở dưới này, ngủ và thức cứ đan xen, lẫn lộn vào nhau. Giấc mơ trở thành bài học, bài học biến thành giấc mơ, mọi thứ diễn ra cùng một lúc hoặc chẳng có gì diễn ra cả. Những gì cậu làm là sự thật hay chỉ là giấc mơ mà thôi?
“Trong một nghìn người sinh ra mới có một người biến hình,” có lần Lãnh chúa Brynden nói sau khi Bran đã học được cách bay, “và cứ một nghìn kẻ biến hình mới có một người nhìn được giấc mơ xanh.”
“Tôi tưởng người nhìn được những giấc mơ xanh là phù thủy trẻ con chứ,” Bran nói. “Ý tôi là các ca sĩ ấy.”
“Đúng, theo một nghĩa nào đó. Những người mà cậu gọi là lũ trẻ rừng rậm có mắt vàng như mặt trời, nhưng cứ lâu lâu lại có một người sinh ra với đôi mắt đỏ rực như máu hoặc xanh như rêu mọc trên cây giữa khu rừng rậm. Bằng những dấu hiệu đó, các vị thần đánh dấu những người họ chọn để trao cho khả năng đặc biệt. Người được chọn không cần phải to cao tráng kiện, và những năm tháng của họ trên mặt đất không nhiều, vì mọi bài hát cần có sự hài hòa. Nhưng khi đã ở trong khu rừng, họ nấn ná lại lâu hơn. Một ngàn con mắt, một trăm bộ da, trí tuệ sâu sắc như rễ cây cổ thụ. Những người nhìn thấy giấc mơ xanh.”
Bran nghe không hiểu. Vì thế cậu hỏi chị em Nhà Reed. “Ngài có thích đọc sách không, Bran?” Jojen hỏi cậu.
“Một số cuốn. Ta thích đọc những câu chuyện về chiến tranh. Chị gái Sansa của ta thích chuyện về hôn hít, nhưng chúng toàn là những câu chuyện ngu ngốc.”
“Người đọc sách sống cả ngàn kiếp trước khi từ giã cuộc đời,” Jojen nói. “Những người không bao giờ đọc chỉ sống một cuộc đời duy nhất mà thôi. Các ca sĩ của rừng rậm không có sách. Không có mực, không có giấy da, không có ngôn ngữ viết. Thay vào đó họ có những cái cây, và trên hết là cây đước. Khi chết đi, họ hòa vào trong thân, trong lá, cành và rễ cây, vì thế những cái cây ghi nhớ. Tất cả những bài hát và thần chú, lịch sử và những lời cầu nguyện, tất cả những gì họ biết về thế giới này. Các học sĩ sẽ bảo ngài rằng cây đước thuộc về các vị thần cổ xưa. Các ca sĩ tin rằng họ chính là các cựu thần. Khi các ca sĩ chết đi, họ trở thành một trong các cựu thần đó.”
Bran mở to mắt. “Họ định gϊếŧ ta à?”
“Không phải đâu,” Meera nói. “Jojen, em làm ngài ấy sợ đấy.”
“Người cần sợ không phải là ngài ấy.”
Trăng tròn vành vạnh. Mùa Hè lang thang trong khu rừng tĩnh mịch, cái bóng dài màu xám mỗi ngày một gầy gò hơn sau những cuộc đi săn, bởi thức ăn quá khan hiếm. Ở cửa động vẫn có bùa chú bảo hộ nên những người chết không vào được. Một lần nữa tuyết lại chôn vùi hầu hết bọn chúng, nhưng chúng vẫn ở đó, đóng băng, ẩn nấp và chờ đợi. Những xác chết khác đến nhập bọn, những kẻ từng là con người, đàn ông, phụ nữ, thậm chí cả trẻ em. Những con quạ chết đậu trên những cành cây nâu trụi lá, cánh đông cứng bởi băng. Một con gấu tuyết lao qua bụi rậm, vĩ đại nhưng gần như chỉ còn là một bộ xương, một nửa đầu nó đã bong hết thịt, để lộ cái đầu lâu ở bên trong. Mùa Hè cùng cả đàn của nó nhảy bổ vào con vật và xé nó ra từng mảnh. Sau đó chúng chia nhau ăn. Dù thịt đã thối và gần như đóng băng nhưng vẫn ngoe nguẩy khi bị bầy sói xé xác.
Dưới chân đồi họ vẫn có thức ăn. Ở dưới này, hàng trăm loại nấm đua nhau mọc.
Cá bạc mù bơi trong dòng nước đen thăm thẳm, nhưng khi nấu lên, vị của chúng vẫn ngon chẳng kém gì so với lũ cá có mắt. Họ lấy pho mát và sữa từ chỗ đám dê ở chung hang với các ca sĩ. Thậm chí họ còn có yến mạch, bột lúa mạch và hoa quả sấy trong suốt mùa hè dài đằng đẵng. Và hầu như ngày nào họ cũng ăn súp tiết trộn với lúa mạch, hành tây và thịt. Jojen nghĩ đó là thịt sóc, nhưng Meera bảo đó là thịt chuột. Bran chẳng quan tâm. Miễn có thịt là được rồi. Thịt được hầm lên cũng mềm mại hơn.
Hang động im ắng, rộng mênh mông và chẳng có dấu hiệu nào để nhận biết thời gian. Đây là nhà của gần bốn chục ca sĩ và xương xẩu của một ngàn xác chết, và nó còn kéo dài rất sâu bên dưới ngọn đồi rỗng này. “Con người không nên lảng vảng ở chỗ này,” Lá cảnh báo họ. “Dòng sông mà cậu nghe thấy nước đen ngòm và chảy rất xiết, nó chảy xuống sâu dưới lòng đất và đổ ra một vùng biển tối tăm không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Và ở đó còn có những lối đi dẫn xuống sâu hơn nữa, những chiếc hố không đáy, những ống thông hơi, những con đường bị lãng quên dẫn vào trung tâm Trái đất. Ngay cả người của tôi cũng chưa bao giờ khám phá hết chúng, và chúng tôi đã sống ở đây suốt hàng ngàn ngàn năm nếu đếm theo cách của con người.”
Dù cư dân Bảy Phụ Quốc gọi họ là lũ trẻ rừng rậm, nhưng Lá và người của cô ta chẳng giống trẻ con chút nào. Những cư dân thông thái của rừng rậm thì đúng hơn. Họ nhỏ bé so với con người, giống như sói thường so với sói tuyết. Nhưng điều đó không có nghĩa họ là sói con. Họ có làn da nâu bóng, lốm đốm như da hươu nhưng đốm của họ nhạt hơn, và đôi tai to để nghe những âm thanh mà con người không nghe được. Mắt họ cũng to nốt, đôi mắt mèo màu vàng vĩ đại có thể nhìn xuyên qua những con đường mà mắt một cậu bé chỉ nhìn thấy bóng tối đen sì. Bàn tay họ chỉ có ba ngón và một ngón cái, có vuốt dài thay vì móng tay.
Và đúng là họ hát. Họ hát bằng Ngôn Ngữ Thực nên Bran không hiểu, nhưng giọng họ trong vắt như không khí mùa đông. “Những người còn lại đâu cả rồi?” Có lần Bran hỏi Lá.
“Xuống dưới lòng đất rồi,” cô trả lời. “Vào trong những tảng đá, những thân cây. Trước khi Tiền Nhân đến, mảnh đất mà các cậu gọi là Westeros là nhà của chúng tôi, nhưng kể cả những ngày đó chúng tôi cũng không có đông người. Các vị thần cho chúng tôi sống lâu, nhưng không cho chúng tôi số lượng, vì sợ rằng chúng tôi sẽ tràn ngập khắp thế giới giống như khu rừng sẽ tràn ngập hươu nếu không có lũ sói ăn thịt chúng. Đó là buổi bình minh của dòng giống chúng tôi, khi mặt trời còn đang mọc. Nhưng giờ nó đang lặn, và chúng tôi đang hao mòn dần. Người khổng lồ cũng sắp tuyệt chủng rồi, họ từng là tai ương, nhưng cũng là anh em của chúng tôi. Loài sư tử lớn ở vùng đồi phía tây cũng đã bị gϊếŧ hết, kỳ lân chẳng còn con nào, ma mυ"ŧ chỉ còn lại vài trăm. Sói tuyết sẽ sống lâu nhất, nhưng rồi thời khắc của chúng cũng sẽ đến. Trong cái thế giới mà con người tạo ra không có chỗ cho họ, hay cho chúng tôi.”
Cô có vẻ không vui khi nói ra những lời ấy, và điều đó khiến Bran cũng buồn lây. Nhưng sau một hồi ngẫm nghĩ cậu mới thấy, rằng con người sẽ không buồn. Con người sẽ giận dữ. Con người sẽ căm ghét và thề sẽ trả thù tàn bạo. Các ca sĩ hát những bài hát buồn thảm, trong khi con người sẽ chiến đấu và gϊếŧ chóc.
Một hôm Meera và Jojen quyết định đi xem dòng sông, mặc kệ Lá có cảnh báo ra sao. “Ta cũng muốn đi,” Bran nói.
Meera rầu rĩ nhìn cậu. Dòng sông nằm tít dưới kia, cách nơi họ đứng hai trăm mét, cô giải thích. Để xuống được dưới đó họ phải trèo xuống những bậc thang dốc và những lối đi ngoằn ngoèo, và đoạn cuối cùng họ còn phải trèo xuống bằng một sợi dây thừng. “Hodor không thể trèo với ngài trên lưng được. Tôi xin lỗi, Bran.”
Bran nhớ có thời không ai leo trèo giỏi như cậu, kể cả Robb hay Jon. Một phần trong cậu muốn gào thét bảo họ đi, nhưng phần khác cậu lại muốn khóc. Nhưng cậu đã gần là một người đàn ông trưởng thành rồi, vì thế cậu không nói gì cả. Nhưng sau khi họ đi, cậu lẻn vào thân xác Hodor và đi theo họ.
Anh chàng chăn ngựa to lớn không còn phản kháng như lần đầu, hồi còn ở tòa tháp nổi giữa hồ trong trận bão. Giống như một con chó sợ hãi mỗi khi nhìn thấy chiếc roi, Hodor thường thu mình lại và ẩn nấp mỗi khi Bran chui vào lốt anh. Nơi ẩn nấp của anh thường là đâu đó sâu thẳm bên trong, một cái hố sâu nơi cả Bran cũng không thể chạm tới được. Không ai muốn làm hại anh đâu, Hodor, cậu nói thầm với đứa trẻ trong thân xác người đàn ông mà cậu đang chiếm giữ. Tôi chỉ muốn được khỏe mạnh trở lại một lúc thôi. Tôi sẽ trả nó lại cho anh, tôi vẫn luôn làm vậy mà.
Chẳng ai biết cậu đang ở trong thân xác Hodor. Bran chỉ việc cười, làm theo những gì được sai bảo và luôn miệng lẩm bẩm “Hodor”, như vậy cậu sẽ được đi theo Meera và Jojen, nhe răng cười hạnh phúc mà không ai mảy may nghi ngờ đó là cậu. Cậu thường lẽo đẽo đi theo, dù mọi người có muốn hay không. Cuối cùng, hai chị em Nhà Reed cũng tỏ ra vui vẻ khi cậu tới. Jojen trèo xuống dây thừng một cách dễ dàng, nhưng sau khi Meera bắt được một con cá mù trắng bằng chĩa đâm ếch và đến lúc phải leo lên, Jojen bắt đầu run tay và không thể trèo lên đến đỉnh, vì thế họ phải buộc một sợi dây thừng vào xung quanh cậu ta và để Hodor kéo lên. “Hodor,” cậu lầm bầm mỗi lần kéo mạnh sợi dây. “Hodor, hodor, hodor.”
Mặt trăng khuyết, mảnh và sắc như một lưỡi dao. Mùa Hè đào lên được một cánh tay đứt rời, đen kịt và phủ kín trong sương giá. Những ngón tay quờ quạng trên mặt đất để tự kéo lê nó đi trên mặt đất đóng băng. Cánh tay vẫn còn đủ thịt để lấp đầy cái dạ dày rỗng tuếch của nó, và sau khi ăn xong, con sói đập xương ra lấy tủy. Chỉ đến lúc này, cánh tay đó mới nhớ ra nó thực sự đã chết.
Bran ăn cùng với bầy sói trong lốt của Mùa Hè. Khi là quạ, cậu bay cùng với đàn, lượn tròn trên ngọn đồi trong ánh hoàng hôn, quan sát kẻ thù và cảm nhận cái lạnh giá của không gian. Khi là Hodor cậu sẽ khám phá hang động. Cậu tìm thấy những căn phòng đầy xương xẩu cùng giáo mác đâm sâu xuống đất, một nơi la liệt các bộ xương của dơi khổng lồ treo ngược trên trần nhà. Thậm chí cậu còn băng qua cây cầu đá hẹp bắc qua vực thẳm và khám phá thêm các lối đi và phòng ốc xa hơn phía bên ngoài. Trong một căn phòng, các ca sĩ ngồi đông đúc trong những chiếc tổ bằng rễ cây đước đan chằng chịt phía dưới, xuyên qua người và xung quanh họ, chẳng khác gì Brynden. Đối với cậu, trông họ hệt như những xác chết, nhưng khi cậu đi qua trước mặt, họ sẽ mở mắt và dõi theo ánh đuốc trên tay cậu, một trong số họ mấp máy đôi môi nhăn nheo như thể đang cố nói điều gì đó. “Hodor,” Bran nói với anh ta, cậu cũng cảm nhận được Hodor thật đang ngọ nguậy ở một nơi sâu thẳm bên trong cơ thể.
Ngồi trên chiếc ngai bằng rễ cây trong động lớn với hình hài nửa xác chết nửa cây, Lãnh chúa Brynden trông còn chẳng giống người bằng những bức tượng kinh dị làm bằng gỗ xoắn, xương cũ và len mục. Thứ duy nhất còn sức sống trong đống mục nát trắng bệch đó là con mắt đỏ rực, nóng rát như viên than cuối cùng trong một đống lửa tàn, xung quanh là đám rễ cây ngoằn ngoèo và những mảnh da trắng bệch lủng lẳng dính vào cái đầu lâu vàng khè.
Bran vẫn còn sợ hãi trước hình ảnh của ông: đám rễ đước bò ra bò vào da thịt khô queo, nấm mọc ra từ má và mọt gỗ trắng ngoe nguẩy trong một bên hốc mắt. Cậu thích tắt đuốc đi, bởi trong bóng tối cậu có thể giả vờ như đó là con quạ ba mắt đang thì thầm với cậu, chứ không phải một xác chết kinh dị biết nói.
Rồi một ngày mình sẽ giống như ông ấy. Suy nghĩ đó khiến Bran sợ hãi. Què quặt với đôi chân vô dụng thế này đã đủ tệ rồi. Lẽ nào cậu còn bất hạnh đến mức mất hết tất cả mọi thứ, ngồi đó hết năm này qua năm khác để một cây đước mọc bên trong và xuyên qua người hay sao? Lãnh chúa Brynden sống nhờ cái cây, Lá bảo họ như vậy. Ông ấy không ăn, cũng không uống. Ông ấy ngủ, mơ và quan sát. Mình sẽ trở thành hiệp sĩ, Bran nhớ lại. Mình từng chạy nhảy, leo trèo và tập trận. Tất cả đã xa xôi như cả hàng nghìn năm trước.
Nhưng giờ thì sao? Cậu chỉ là thằng nhóc Bran què quặt, Brandon Nhà Stark, hoàng tử của một vương quốc đã mất, lãnh chúa của một tòa lâu đài cháy rụi, và người thừa kế của đống đổ nát hoang tàn. Cậu cứ tưởng con quạ ba mắt là một phù thủy, một thầy pháp già thông thái có khả năng chữa lành chân cho cậu, nhưng giờ cậu đã nhận ra đó chỉ là một giấc mơ trẻ con ngu xuẩn. Mình đã lớn thế này rồi, không còn chỗ cho những ảo tưởng như vậy nữa, cậu tự nhủ. nghìn con mắt, một trăm hình hài, trí tuệ sâu sắc như rễ cây cổ thụ. Như vậy cũng có kém gì tước hiệu hiệp sĩ đâu. Ít ra cũng gần bằng đấy chứ.
Mặt trăng trông như một hố đen trên bầu trời. Ngoài kia cuộc sống vẫn trôi qua như thường lệ. Bên ngoài chiếc hang, mặt trời mọc và lặn, trăng tròn rồi khuyết, gió lạnh gào rít. Dưới ngọn đồi, Jojen Reed ngày một trầm ngâm và cô độc, mặc cho chị cậu buồn phiền. Cô thường ngồi với Bran bên cạnh đống lửa nhỏ, nói chuyện về mọi thứ hoặc là không nói gì cả, vuốt ve Mùa Hè khi nó nằm ngủ giữa họ, trong khi em trai cô lang thang trong động một mình. Jojen thậm chí còn trèo lên miệng hang trong những hôm trời sáng sủa. Cậu ta sẽ đứng đó suốt hàng giờ và nhìn ra khu rừng, toàn thân run lên bần bật mặc dù cuộn tròn trong mấy lớp lông.
“Cậu ấy muốn về nhà,” Meera nói với Bran. “Cậu ấy thậm chí không muốn chiến đấu với số phận của mình. Cậu ấy bảo những giấc mơ xanh không nói dối.”
“Cậu ấy dũng cảm đấy chứ,” Bran nói. Thời khắc duy nhất mà một người đàn ông tỏ ra dũng cảm là khi anh ta sợ hãi, có lần cha cậu từng nói vậy. Ngày đó cách đây đã lâu lắm rồi, khi họ tìm thấy đám sói con trong đống tuyết mùa hè. Cậu vẫn còn nhớ rõ.
“Ngu ngốc thì có,” Meera nói. “Tôi đã hy vọng rằng khi chúng ta tìm thấy con quạ ba mắt… Giờ thì… chúng ta đến đây vì cái gì cơ chứ.”
Vì mình, Bran nghĩ. “Vì những giấc mơ xanh của cậu ấy,” cậu nói.
“Vì những giấc mơ xanh.” Meera chua chát.
“Hodor,” Hodor nói.
Meera bắt đầu khóc.
Những lúc này Bran mới thấy ghét làm một thằng què. “Đừng khóc,” cậu nói. Cậu muốn vòng tay quanh cô, ôm cô thật chặt theo cách mẹ thường ôm cậu hồi ở Winterfell, mỗi khi cậu tự làm đau mình. Cô ấy ở ngay đó, chỉ cách cậu vài bước chân, nhưng lại xa tầm tay cậu tưởng chừng như hàng trăm dặm. Để chạm được vào cô ấy, cậu sẽ phải bò trên mặt đất bằng hai tay, kéo lê đôi chân què quặt phía sau. Mặt đất cứng ngắc và lồi lõm, nên chắc chắn cậu sẽ bò rất chậm, người sẽ đầy cục u và xước xát. Mình có thể dùng thân xác Hodor, cậu nghĩ. Hodor có thể ôm và vỗ nhẹ lên lưng cô ấy. Suy nghĩ đó khiến Bran cảm thấy lạ lùng, nhưng cậu vẫn tiếp tục nghĩ về điều đó khi Meera rời đống lửa và quay ra phía đường hầm tối tăm. Cậu nghe thấy tiếng bước chân của cô nhỏ dần cho đến khi chẳng còn âm thanh gì ngoài giọng của các ca sĩ.
Trăng khuyết, mảnh và sắc như một lưỡi dao. Ngày nối ngày trôi qua, hôm sau ngắn hơn hôm trước. Đêm mỗi lúc một dài hơn. Không một tia nắng mặt trời nào chiếu được vào trong động bên dưới quả đồi. Ánh trăng cũng không lọt được vào trong
hang đá. Ngay cả các ngôi sao cũng là những kẻ lạ mặt ở đó. Chúng thuộc về thế giới bên trên, nơi thời gian tuần hoàn một cách cứng nhắc, ngày, rồi đêm, rồi lại ngày, rồi đêm.
“Đến lúc rồi,” Lãnh chúa Brynden nói.
Trong giọng nói của ông ta có cái gì đó khiến Bran lạnh cả sống lưng. “Đến lúc làm gì cơ?”
“Tiến hành bước tiếp theo. Đã đến lúc cậu phải vượt qua giai đoạn biến hình và học cách nhìn thấu những giấc mơ xanh.”
“Cây cối sẽ dạy cậu ấy,” Lá nói. Cô gái vẫy tay, và một ca sĩ nữa tiến lên phía trước, đứa trẻ tóc trắng mà Meera từng đặt tên là Tóc Bạc. Trên tay cô ta cầm một cái bát bằng gỗ đước chạm trổ mười hai khuôn mặt, giống như những khuôn mặt trên các thân cây đước. Bên trong là một hỗn hợp nhão màu trắng sền sệt, với những mạch máu màu đỏ thẫm chạy ngang dọc. “Cậu phải ăn cái này,” Lá nói. Cô đưa cho cậu một cái thìa gỗ.
Cậu nhìn cái bát ngần ngại. “Cái gì thế?”
“Bột làm từ hạt cây đước.”
Chẳng hiểu sao Bran thấy khó chịu trong người khi nhìn bát bột. Những vệt màu đỏ chỉ là nhựa cây, cậu nghĩ vậy, nhưng dưới ánh đuốc trông chúng chẳng khác gì mạch máu. Cậu chọc chiếc thìa vào hỗn hợp bột, rồi lại ngập ngừng. “Thứ này sẽ giúp tôi nhìn thấy những giấc mơ xanh à?”
“Dòng máu của cậu mới giúp cậu nhìn được những giấc mơ xanh,” Lãnh chúa Brynden nói. “Thứ đó sẽ đánh thức tài năng thiên phú của cậu và giúp cậu cưới những cái cây.”
Đúng là Bran muốn lấy một cái cây… nhưng làm gì có ai muốn lấy một thằng què như cậu? Một nghìn con mắt, một trăm hình hài, trí tuệ sâu sắc như rễ cây cổ thụ. Một người nhìn trước tương lai.
Và cậu ăn.
Nó có vị đắng, dù không đắng như bột quả đấu. Thìa đầu tiên là khó nuốt nhất. Cậu suýt nữa nôn ra ngay lập tức. Thìa thứ hai đỡ hơn. Thìa thứ ba khá ngọt. Và phần còn lại được cậu hăm hở ăn hết sạch. Sao ban đầu cậu lại nghĩ là nó đắng nhỉ? Nó có vị của mật ong, của tuyết mới, của tiêu, quế, của nụ hôn cuối mà mẹ dành cho cậu. Chiếc bát tuột khỏi tay cậu và rơi xuống đất. “Tôi chẳng thấy gì khác cả. Tiếp theo là gì?”
Lá chạm vào tay cậu. “Những cái cây sẽ dạy cho cậu. Cây cối luôn ghi nhớ.” Cậu
giơ một tay lên, và các ca sĩ khác bắt đầu di chuyển quanh hang và dập tắt từng ngọn đuốc một. Bóng tối mỗi lúc một dày đặc hơn và bò dần về phía họ.
“Nhắm mắt lại,” con quạ ba mắt nói. “Hãy ra khỏi thân khác cậu, giống như khi cậu chui vào lốt Mùa Hè. Nhưng lần này hãy chui vào rễ cây. Đi theo chúng dưới lòng đất, lên những cái cây trên ngọn đồi và nói cho ta biết cậu nhìn thấy những gì.”
Bran nhắm mắt lại và thoát ra khỏi xác. Chui vào bộ rễ, cậu nghĩ. Chui vào cây đước. Biến thành một cái cây. Trong tích tắc, cậu nhìn thấy cả chiếc hang trong bóng tối đen đặc bao trùm, nghe được tiếng dòng sông chảy rì rào phía dưới.
Sau đó, đột nhiên cậu trở về nhà.
Lãnh chúa Eddard Stark đang ngồi trên một tảng đá bên cạnh chiếc hồ đen thẳm trong khu rừng thiêng, đám rễ cây trắng bệch của cây đước xoắn lại xung quanh ông như cánh tay gầy gò xương xẩu của một ông già. Thanh Băng Đao vĩ đại nằm ngang trên đùi Lãnh chúa Eddard, ông đang lau lưỡi kiếm bằng một mảnh vải dầu.
“Winterfell,” Bran lẩm bẩm.
Cha cậu ngẩng lên. “Ai thế?” Ông hỏi và quay lại… nhưng Bran, cậu lại sợ hãi và chùn bước. Cha cậu, chiếc hồ đen ngòm cùng với khu rừng thần mờ dần, biến mất, và cậu quay trở lại cái động với chiếc chiếc ngai của mình. Đám rễ đước màu trắng xám dày đặc nâng niu chân tay cậu như một người mẹ ôm con. Một ngọn đuốc lập lòe trước mặt.
“Kể cho chúng tôi nghe, cậu đã nhìn thấy gì.” Nhìn từ xa, trông Lá gần giống như một bé gái, không lớn hơn Bran hay chị gái thứ hai của cậu là bao, nhưng khi nhìn gần, trông cô ta già hơn nhiều. Lá nói cô đã sống tới hai trăm năm.
Cổ họng Bran khô khốc. Cậu nuốt nước bọt. “Winterfell. Tôi trở lại Winterfell. Tôi nhìn thấy cha. Ông ấy chưa chết, ông ấy chưa chết. Tôi nhìn thấy ông ấy, ông ấy đang ở Winterfell và ông vẫn còn sống.”
“Không,” Lá nói. “Ông ấy chết rồi, nhóc ạ. Đừng cố gọi ông ấy lên từ cõi chết.”
“Nhưng tôi nhìn thấy ông ấy.” Bran cảm thấy gỗ thô ráp cọ vào một bên má. “Ông ấy đang lau Băng Đao.”
“Cậu thấy những gì cậu muốn thấy. Trái tim cậu hướng về cha và về nhà, vì thế đó là những gì cậu nhìn được.”
“Một người cần phải học cách nhìn sự thật thay vì nhìn những gì mình muốn thấy,” Lãnh chúa Brynden nói. “Những gì cậu thấy là bóng đen của những ngày tháng trước, Bran ạ. Cậu nhìn bằng đôi mắt của cây đước trong khu rừng thiêng. Thời gian đối với cây cối và đối với con người không giống nhau. Mặt trời, đất và nước là những thứ
một cây đước có thể hiểu được, chứ không phải ngày, tháng, năm và thế kỷ. Đối với con người, thời gian là một dòng sông. Chúng ta bị mắc kẹt trong dòng chảy của chúng, trôi từ quá khứ đến hiện tại, và luôn chỉ đi theo một chiều. Cuộc sống của cây cối không giống như vậy. Chúng mọc rễ, lớn lên và chết ở cùng một chỗ, và dòng sông đó không thể cuốn chúng đi đâu được. Cây sồi là quả đấu, quả đấu là cây sồi. Và cây đước… một nghìn năm của con người chỉ bằng một khoảnh khắc đối với một cái cây, và qua những cánh cổng như vậy, cậu và ta có thể nhìn thấy quá khứ.”
“Nhưng,” Bran nói, “ông ấy nghe thấy tôi.”
“Ông ấy nghe thấy tiếng thì thầm của gió, tiếng xào xạc của lá cây. Cậu không thể nói chuyện với ông ấy, dù cậu đã cố gắng rất nhiều, ta biết chứ. Ta cũng có những bóng ma của riêng mình, Bran ạ. Một người anh em ta rất yêu quý, một người anh em ta căm ghét, một người phụ nữ ta thèm muốn. Qua những cái cây, ta vẫn nhìn thấy họ, nhưng họ không bao giờ nghe thấy những gì ta nói. Quá khứ chỉ là quá khứ. Chúng ta có thể học hỏi từ quá khứ, nhưng không thể thay đổi nó.”
“Liệu tôi có nhìn thấy cha nữa không?”
“Một khi làm chủ được khả năng của mình, cậu có thể nhìn thấy những gì cậu muốn, nhìn thấy những gì cây cối từng chứng kiến, dù là hôm qua, năm ngoái hay một nghìn năm trước. Cuộc sống của con người bị mắc kẹt trong hiện tại vĩnh hằng, giữa màn sương mù của ký ức và một biển bóng đen mà chúng ta gọi là tương lai. Cuộc đời của một số loài nhậy chỉ gói gọn trong một ngày, nhưng đối với chúng, chừng đó thời gian dường như cũng dài bằng cả năm, cả thập kỷ đối với con người. Một cây sồi có thể sống ba trăm năm, cây gỗ đỏ sống tới ba nghìn năm. Một cây đước sẽ tồn tại mãi mãi nếu không bị quấy rầy. Đối với chúng, những mùa qua đi cũng chỉ như một cái vẫy cánh của con bướm đêm, và quá khứ, hiện tại, tương lai hòa làm một. Thị lực của cậu cũng không bị giới hạn trong khu rừng thiêng. Các ca sĩ khắc những con mắt lên cây đước để đánh thức chúng, và đó là những con mắt đầu tiên mà một người nhìn thấy giấc mơ xanh phải học cách sử dụng… nhưng dần dần, cậu sẽ còn nhìn được nhiều thứ hơn cả những cái cây.”
“Khi nào?” Bran tò mò hỏi.
“Một năm, hai năm, hay mười năm? Việc đó ta chưa tính. Nhưng ta đảm bảo với cậu thời khắc đó sẽ tới, ta hứa như vậy. Còn bây giờ ta mệt rồi. Rừng cây đang gọi ta. Sáng mai chúng ta sẽ tiếp tục.”
Hodor vừa đưa Bran về phòng vừa lẩm bẩm “Hodor,” trong khi Lá đi phía trước với cây đuốc trong tay. Cậu cứ hy vọng Meera và Jojen sẽ ở đó, để cậu kể cho họ nghe những gì cậu nhìn thấy, nhưng góc thụt ấm áp của họ trong hang lại trống huếch và lạnh lẽo. Hodor đặt Bran lên giường, choàng lông lên người cậu và nhóm lửa. Một
nghìn con mắt, một trăm hình hài, trí tuệ sâu sắc như rễ cây cổ thụ.
Quan sát ngọn lửa, Bran quyết định sẽ thức cho đến khi Meera quay lại. Cậu biết Jojen sẽ không vui, nhưng Meera sẽ mừng cho cậu. Cậu không nhớ mình đã nhắm mắt lại lúc nào.
… Nhưng sau đó không hiểu sao cậu lại quay lại Winterfell lần nữa, trong khu rừng thiêng và nhìn xuống chỗ cha mình đang đứng. Lần này Lãnh chúa Eddard có vẻ trẻ hơn rất nhiều. Mái tóc nâu của ông không có một sợi bạc nào, đầu ông khẽ cúi. “Hãy để chúng lớn lên khăng khít như anh em, yêu thương đùm bọc lẫn nhau,” ông cầu nguyện, “và cầu mong cho trái tim vợ con đủ bao dung để tha thứ…”
“Cha.” giọng Bran nghe như tiếng thì thầm trong gió, tiếng rì rào của đám lá cây. “Cha, con đây. Con là Bran. Brandon.”
Eddard Stark ngẩng đầu lên và nhìn cây đước một lúc lâu. Ông nhíu mày không nói gì. Ông ấy không thể nhìn thấy mình, Bran thất vọng nhận ra điều đó. Cậu muốn với tay ra và chạm vào ông, nhưng tất cả những gì cậu có thể làm chỉ là quan sát và nghe ngóng. Mình đang ở bên trong cái cây. Mình đang ở trong cây đước và nhìn ra ngoài bằng đôi mắt đỏ rực, nhưng cây đước không thể nói.
Eddard Stark tiếp tục cầu nguyện. Bran thấy mắt cậu ầng ậng nước. Nhưng đó là nước mắt của cậu, hay là nước mắt của cái cây?
Những lời tiếp theo của cha cậu bị nhấn chìm bởi tiếng gỗ đập vào nhau lạch cách. Eddard Stark tan ra như sương buổi sớm. Giờ là hai đứa trẻ nhảy múa trong khu rừng thiêng, vừa đánh trận giả với nhau bằng cành cây gãy vừa la hét. Đứa con gái cao hơn và lớn tuổi hơn. Đó là Arya! Bran hân hoan nghĩ khi thấy cô nhảy lên một tảng đá và chém cậu bé. Nhưng không thể nào như vậy được. Nếu cô bé đó là Arya thì người còn lại phải là Bran, nhưng cậu chưa bao giờ để tóc dài đến vậy. Arya cũng chưa bao giờ chiến thắng mình khi đấu kiếm giống như những gì cô gái đó đang làm. Cô ta chém lên đùi cậu bé, mạnh đến nỗi cậu sảy chân, ngã xuống hồ rồi bắt đầu đập nước và la hét. “Im đi, đồ ngốc,” cô gái nói và ném cành cây của cô đi. “Chỉ là nước thôi. Em muốn Già Nan nghe thấy và đi kể cho cha à?” Cô gái quỳ xuống và kéo em trai ra khỏi hồ nước, nhưng trước khi cô kịp kéo được cậu nhóc lên, hình ảnh của họ lại biến mất.
Sau đó những hình ảnh mỗi lúc một nhanh dần, cho đến khi Bran cảm thấy rối bời và nhức đầu chóng mặt. Cậu không nhìn thấy cha mình, cũng không thấy cô gái trông giống Arya nữa, mà là một phụ nữ bụng chửa nặng nề, tя͢ầи ͙ȶя͢υồиɠ bước lên từ hồ nước đen kịt, quỳ bên dưới cái cây và cầu mong các vị cựu thần cho cô ta một cậu con trai, để cậu bé có thể trả thù cho cô ta. Tiếp theo đó là một cô gái tóc nâu mảnh dẻ như cây thương, đứng nhón trên mũi chân để hôn lên môi một hiệp sĩ trẻ cao lớn như
Hodor. Một chàng trai mắt đen, da nhợt nhạt và dữ tợn chặt ba cành cây khỏi thân cây đước và vót thành các mũi tên. Cái cây teo lại, hình ảnh cũ co vào với mỗi hình ảnh mới hiện ra. Những cái cây bé hơn nhỏ dần và biến mất, những cây khác thế chỗ, rồi đến lượt chúng cũng nhỏ dần và tan biến đi. Giờ thì các lãnh chúa mà Bran nhìn thấy đều cao ráo và rắn chắc, những người đàn ông nghiêm nghị trong lông thú và áo giáp xích. Theo những gì cậu nhớ thì một số người có nét mặt giống những bức tượng trong hầm mộ, nhưng những hình ảnh nhanh chóng biến mất trước khi cậu kịp nhớ ra tên bọn họ.
Sau đó, khi cậu quan sát, một người đàn ông râu ria ấn một tù binh quỳ xuống dưới gốc cây đước. Một phụ nữ tóc bạc trắng từ trong tán lá đỏ rực bước ra và tiến về phía họ, trong tay bà ta cầm một lưỡi hái bằng đồng.
“Không,” Bran nói, “không, đừng làm thế,” nhưng họ không nghe thấy cậu nói, cũng giống như cha cậu trước đây. Người phụ nữ túm tóc tù binh, kề lưỡi hái vào cổ và rạch một đường. Và trong màn sương của thời gian dài đằng đẵng hàng thế kỷ, cậu nhóc què chỉ có thể giương mắt lên nhìn đôi chân người đàn ông giậm trên mặt đất… nhưng khi sự sống chảy ra khỏi người anh ta như cơn thủy triều đỏ rực, Brandon Stark nếm được cả vị máu.