Chương 7

Bà Peregrine lại cúi người xuống album ảnh và tỉ mẩn lần qua các trang. "Nhắc mới nhớ, có lẽ ta có một bức ảnh của... à, nó đây rồi. Một lối vào là thế này đây!" Bà lấy một bức ảnh nữa ra khỏi vỉ cài. "Đây là cô Finch và một trong những học trò của cô trong lối vào huy hoàng dẫn tới vòng của cô ấy, tọa lạc tại một khu hiếm khi được sử dụng của hệ thống tàu điện ngầm London. Khi nó được khởi động, cả đường hầm chìm trong một quầng sáng chói chang khủng khϊếp. Ta luôn nghĩ lối vào vòng của chúng ta so với nó có lẽ khá khiêm tốn", bà nói, một chút ghen tị thoáng lộ ra.

"Cháu hỏi cho rõ thôi nhé", tôi nói. "Nếu hôm nay là mồng ba tháng Chín năm 1940, vậy thì ngày mai... cũng là mồng ba tháng Chín sao?"

"À, một phần nhỏ trong số hai mươi bốn giờ của vòng thuộc về mồng hai tháng Chín, nhưng, đúng vậy, ngày mai vẫn là mồng ba."

"Vậy là ngày mai không bao giờ tới." "Có thể nói là vậy."

Bên ngoài, một tiếng ầm ầm xa xa nghe như tiếng sấm vẳng lại, và cửa sổ tối sầm lại rung lên lạch cạch. Bà Peregrine ngước nhìn lên và một lần nữa lấy đồng hồ ra.

"Ta e rằng ta chỉ có thể dành ra chừng đó thời gian vào lúc này. Ta hy vọng cậu sẽ ở lại dùng bữa tối."

Tôi nói tôi sẽ ở lại dùng bữa; hầu như không bận tâm đến việc bố có thể băn khoăn xem tôi đang ở đâu. Tôi loay hoay bước ra từ đằng sau cái bàn học và bắt đầu đi theo bà Peregrine ra cửa, nhưng rồi một câu hỏi nữa lại hiện lên trong đầu tôi, câu hỏi đã đeo đẳng tôi một thời gian dài."Ông nội cháu tới đây có phải để chạy trốn bọn Quốc Xã thật không?" "Đúng thế", bà nói. "Một số đứa trẻ tới với chúng ta trong những năm kinh

khủng ngay trước khi chiến tranh bùng nổ. Có rất nhiều biến động." Trong bà có vẻ đau khổ, như thể ký ức vẫn còn tươi mới. "Ta tìm thấy Abraham trong một khu trại dành cho người tị nạn trên đất liền. Cậu ấy là một cậu bé tội nghiệp, bị giày vò, nhưng thật mạnh mẽ. Ta lập tức nhận ra cậu ấy thuộc về cộng đồng chúng ta."

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm; ít nhất phần đời đó của ông cũng đúng như tôi từng hiểu. Song vẫn còn một điều nữa tôi thắc mắc, mà không biết nên đặt câu hỏi như thế nào.

"Ông nội cháu... ông có giống như...?" "Như chúng ta không chứ gì?"

Tôi gật đầu.

Bà Peregrine mỉm cười thật lạ lùng. "Cậu ấy giống cậu, Jacob." Rồi bà quay đi, tập tễnh bước về phía cầu thang.

Bà Peregrine nhất thiết yêu cầu tôi phải rửa sạch bùn đất trước khi ngồi vào bàn ăn, và yêu cầu Emma đưa tôi đi tắm. Tôi nghĩ bà hy vọng bằng cách nói chuyện một chút với tôi, Emma sẽ bắt đầu cảm thấy dễ chịu hơn. Nhưng cô thậm chí còn chẳng nhìn tôi. Tôi dõi theo trong lúc cô vặn nước lạnh vào bồn tắm rồi làm ấm nước bằng hai bàn tay trần của mình, khỏa đi khỏa lại cho tới khi hơi nước bốc lên.

"Hay quá", tôi nói. Nhưng cô gái rời đi mà không đáp lại một lời nào.

Sau khi đã biến nước trong bồn thành màu nâu khá sẫm, tôi choàng khăn tắm lên người, ra khỏi bồn và tìm thấy một bộ đồ để thay treo sau cánh cửa - một cái quần vải tuýt rộng thùng thình, một cái áo sơ mi có khuy cài cổ, một đôi dây đai đeo quần quá ngắn song tôi không tìm ra nổi cách chỉnh thế nào cho vừa. Vậy là tôi có hai lựa chọn cho việc mặc quần, hoặc là để nó tụt quanh mắt cá, hoặc là phải kéo quần tít lên tận rốn. Tôi quyết định rằng phương án hai là lựa chọn đỡ tệ hại hơn, rồi xuống dưới nhà để dùng bữa ăn có lẽ là kỳ lạ nhất trong đời mình với trang phục chẳng khác gì một anh hề chưa hóa trang.

Bữa tối là một đám nhòe nhoẹt quay cuồng chóng mặt của những khuôn mặt và cái tên, rất nhiều trong đó tôi mơ hồ hồi tưởng lại được từ những bức ảnh và những lời mô tả đã từ lâu lắm của ông. Khi tôi vào phòng ăn, đám thiếu niên, vốn trước đó đang la hét ầm ĩ để tranh chỗ ngồi quanh bàn, đều đứng sững cả lại và nhìn tôi chằm chằm. Tôi có cảm giác họ không mấy khi có khách tới ăn tới. Bà Peregrine, đã ngồi chỉnh tề ở đầu bàn, đứng dậy và dùng khoảng im lặng đột ngột này như cơ hội để giới thiệu tôi.

"Với những ai trong các cô cậu chưa có vinh hạnh gặp cậu ấy", bà nói, "đây là cháu nội của Abraham, Jacob. Cậu ấy là khách danh dự của chúng ta, và đã vượt qua một quãng đường dài để có mặt tại đây. Ta hy vọng các cô cậu sẽ cư xử với cậu ấy đúng mực." Sau đó, bà chỉ vào từng người trong phòng và giới thiệu tên, phần lớn những cái tên đó tôi lập tức quên ngay, như chuyện thường xảy ra khi tôi bối rối. Sau màn giới thiệu là cả một cơn mưa câu hỏi, nhưng đã được bà Peregrine đánh bạt đi một cách cực kỳ hiệu quả.

"Jacob sẽ ở lại chỗ chúng ta chứ ạ?" "Theo như ta biết thì không."

"Abe đâu rồi?""Abe đang bận việc ở Mỹ."

"Tại sao Jacob lại mặc quần của Victor?"

"Victor không cần tới nó nữa, còn cậu Portman cần tắm rửa." "Abe đang làm gì ở Mỹ vậy?"

Đến câu hỏi này tôi đưa mắt nhìn Emma, lúc ấy vẫn đang trừng mắt nhìn từ trong góc phòng, và cô liền đứng vụt dậy khỏi ghế, kiêu hãnh bước ra khỏi phòng. Những người khác, có vẻ đã quá quen với tính khí bốc đồng của cô gái, không hề tỏ vẻ bận tâm.

"Đừng bận tâm Abe đang làm gì", bà Peregrine gắt lên.

"Khi nào cậu ấy quay lại ạ?"

"Đừng bận tâm tới chuyện đó. Chúng ta dùng bữa nào!"

Tất cả mọi người đồng loạt ngồi xuống ghế. Tưởng mình đã tìm thấy một cái ghế còn trống, tôi tới đó ngồi xuống và cảm thấy một cái nĩa chọc vào đùi mình. "Thứ lỗi nhé!" Millard la lên. Nhưng bà Peregrine buộc cậu ta phải từ bỏ trò đùa của mình, yêu cầu cậu ta ra khỏi phòng về mặc quần áo.

"Ta còn phải bảo cậu bao nhiêu lần nữa", bà nói với theo sau cậu ta, "những người lịch sự không ở trần đi ăn tối!"

Các cô cậu thiếu niên làm việc ở nhà bếp xuất hiện mang lên các khay thức ăn, tất cả đều đậy nắp bạc sáng bóng khiến thực khách không thể nhìn thấy những gì ở trong, bèn tha hồ tung ra những phỏng đoán hoang đường về thực đơn bữa tối.

"Ủng da rái cá!" một cậu con trai hét to.

"Mèo con muối và gan chuột chù!" một người khác nói, phỏng đoán này được những đứa trẻ ít tuổi hơn đáp lại bằng những tiếng cười khúc khích. Nhưng khi những cái nắp cuối cùng cũng được nhấc lên, một bữa tiệc vương giả lộ diện: một con ngỗng quay, lớp da ngả màu vàng cánh gián hoàn hảo; nguyên một con cá hồi và một con cá tuyết, mỗi con đều được bày kèm với chanh, thì là tươi và rưới bơ đun chảy; một bát đựng trai hấp; những đĩa đựng rau củ nướng; những ổ bánh mì nóng hổi mới ra lò; và đủ các loại thạch và xốt mặc dù tôi không nhận ra được là gì nhưng trong có vẻ rất ngon. Tất cả đều lộng lẫy mời gọi dưới ánh sáng lung linh của đèn khí đốt, cách xa cả một thế giới so với những món hầm nhừ béo ngậy không thể luận ra nguồn gốc tôi đã phải cố nuốt vào tại Priest Hole. Chưa có gì vào bụng kể từ bữa sáng, tôi liền lao vào ăn ngấu nghiến chẳng để ý tới gì khác nữa.

Đáng lẽ tôi không nên thấy ngạc nhiên vì những đứa trẻ đặc biệt có cách ăn đặc biệt, nhưng giữa những lần đưa nĩa lấy thức ăn, tôi nhận ra mình đang lén liếc mắt nhìn quanh phòng. Olive, cô gái có thể bay lên được cài đai buộc vào một cái ghế được vít chặt xuống sàn để cô không lơ lửng bay lên tận trần nhà. Để những người còn lại không bị lũ côn trùng quấy rầy, Hugh, cậu con trai nuôi ong trong bụng, ngồi ăn trong một cái màn chống muỗi lớn, ở một cái bàn ai đó kê trong góc. Claire, cô gái trông như búp bê với những lọn tóc vàng óng hoàn hảo, ngồi ngay cạnh bà Peregrine nhưng không ăn miếng nào.

"Bạn không đói sao?" tôi hỏi cô.

"Claire không ăn cùng với chúng ta", Hugh lên tiếng, một con ong thoát ra khỏi miệng cậu ta. "Bạn ấy ngượng."

"Tôi không ngượng!" cô gái vừa đáp vừa trừng mắt nhìn cậu ta. "Thế à? Vậy thì ăn gì đó đi!"

"Không ai ở đây phải ngượng về năng lực của họ cả", bà Peregrine nói. "Chỉ đơn giản là cô Densmore thích ăn một mình. Phải vậy không, cô Densmore?"

Cô gái nhìn chằm chằm vào mặt bàn trống trước mặt mình, rõ ràng ước gì mọi sự chú ý hãy tan biến đi.

"Claire có miệng ở sau gáy", Millard giải thích, lúc này cậu ta đang ngồi cạnh tôi, mặc trên người một chiếc áo vest dạ tiệc (ngoài ra không còn gì khác).

"Cái gì cơ?"

"Nào, hãy cho cậu ấy thấy đi!" ai đó lên tiếng. Chẳng mấy chốc, tất cả mọi người quanh bàn đều hối thúc Claire ăn chút gì đó. Và cuối cùng, chỉ để làm bọn họ im lặng, cô gái làm theo.

Một cái đùi ngỗng được để xuống trước mặt cô. Cô xoay người ra sau, và vừa bám lấy tay vịn ghế, cô vừa ngả người về phía lưng, chạm gáy xuống đĩa. Tôi nghe thấy tiếng cắn nhai vang lên rất rõ, và khi cô gái ngẩng gáy lên trở lại cái đùi ngỗng đã hụt đi một miếng lớn. Bên dưới mái tóc vàng óng của cô gái là hai hàm răng sắc lẹm. Đột nhiên tôi chợt hiểu bức ảnh lạ lùng chụp Claire tôi đã thấy trong cuốn album ảnh của bà Peregrine, người thợ ảnh đã dành cho nó hai khuôn hình: một bức chụp khuôn mặt xinh đẹp kiêu hãnh của cô gái, bức kia chụp những lọn tóc đã che khuất hoàn toàn phần gáy cô.

Claire quay người lại như trước, khoanh hai tay, bực bội vì đã để mình bị thúc giục đến chỗ thực hiện một màn trình diễn mất mặt như thế. Cô gái ngồi im lặng trong khi những người khác dồn dập đặt câu hỏi với tôi. Sau khi bà Peregrine đã gạt đi thêm vài câu hỏi về ông nội tôi, đám thiếu niên quay sang các chủ đề khác. Họ có vẻ đặc biệt quan tâm tới cuộc sống diễn ra vào thế kỷ hai mươi mốt.

"Có mô tô bay không?" một cậu con trai mới dậy thì có tên Horace hỏi, bộ vest sẫm màu cậu ta mặc khiến chủ nhân của nó trong giống như một anh chàng học việc.

"Không", tôi nói. "Ít nhất là chưa có."

"Người ta đã xây các thành phố trên mặt trăng chưa?" một cậu con trai khác hỏi đầy hy vọng.

"Hồi thập niên sáu mươi, chúng tôi đã để lại trên đó ít rác và một lá cờ, nhưng cũng chỉ có thế thôi."

"Nước Anh vẫn thống trị thế giới chứ?" "À... không hẳn là thế."

Họ có vẻ thất vọng. Chớp thời cơ, bà Peregrine liền nói, "Các em thấy chưa? Nói cho cùng tương lai cũng không có gì ghê gớm cả. Chẳng có gì không ổn với hiện tại cũ kỹ tốt đẹp ở đây lúc này!" Tôi có cảm giác đây là điều bà thường cố in vào đầu đám trẻ, mà không mấy thành công. Nhưng nó làm tôi tự hỏi: họ đã ở đây, trong "hiện tại cũ kỹ tốt đẹp lúc này", được bao lâu rồi?

"Các bạn có phiền nếu mình hỏi các bạn bao nhiêu tuổi rồi không?" tôi hỏi. "Mình tám mươi ba tuổi", Horace nói.

Olive giơ tay lên đầy phấn khích. "Tuần tới là tớ bảy mươi lăm tuổi rưỡi!" Tôi tự hỏi làm cách nào họ theo dõi được tháng và năm nếu ngày không bao giờ thay đổi."Tớ một trăm mười bảy hay một trăm mười tám tuổi gì đấy", một cậu con trai mắt lờ đờ tên là Enoch nói. Trong cậu ta chỉ chưa quá mười ba. "Tớ từng sống trong một vòng khác trước khi tới vòng này", cậu ta giải thích.

"Tớ gần tám mươi bảy tuổi rồi", Millard nói trong khi mỡ ngỗng chảy nhỏ giọt từ miệng, và khi cậu ta nói, chỗ thịt ngỗng đang nhai dở không ngừng chuyển động bên trong bộ hàm vô hình của cậu ta để tất cả cùng thấy. Mọi người rên lên che mắt và nhìn đi chỗ khác.

Sau đó đến lượt tôi. Tôi nói với họ mình mười sáu tuổi. Tôi thấy một số người mở to mắt. Olive phá lên cười ngạc nhiên. Với tất cả họ, thật kỳ lạ khi tôi còn trẻ đến thế, nhưng điều lạ lùng với tôi là không hiểu sao họ dường như trông đều còn trẻ đến vậy. Tôi biết vô số người tám mươi tuổi ở Florida, và những đứa trẻ này xử sự chẳng giống gì với họ cả. Có vẻ như sự bất biến của cuộc sống họ trải qua tại đây, những ngày trôi qua không hề thay đổi - trong mùa hè bất tận này - đã làm ngưng lại cả cảm xúc lẫn cơ thể họ, gói gọn họ lại trong tuổi trẻ của mỗi người như Peter Pan và những Cậu Bé Thất Lạc của cậu ta.

Một tiếng bùm đột ngột vọng vào từ bên ngoài, lần thứ hai trong tối hôm nay, nhưng to hơn và gần hơn lần thứ nhất, làm tất cả đĩa và đồ bạc rung lên cành cạch.

"Tất cả, khẩn trương kết thúc bữa ăn đi!" bà Peregrine ra lệnh, và bà vừa cất lời thì một cơn chấn động nữa rung chuyển ngôi nhà, khiến một bức ảnh l*иg khung bật rơi khỏi bức tường đằng sau tôi.

"Cái gì vậy?" tôi hỏi.

"Lại là đám Jerry mắc dịch đó!" Olive càu nhàu, đấm nắm tay nhỏ nhắn của cô xuống bàn, rõ ràng là bắt chước một người lớn nóng tính nào đó. Thế rồi tôi nghe thấy âm thanh gì đó giống như tiếng còi hụ ngoài xa, và đột nhiên tôi hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đây là tối mồng ba tháng Chín năm 1940, và chỉ lát nữa một quả bom sẽ rơi xuống từ trên trời và phá bung ra một cái hố khổng lồ trong nhà. Tiếng còi kia là còi báo động phòng không, vọng lại từ đỉnh đồi.

"Chúng ta phải rời khỏi đây", tôi nói, cơn hoảng hốt trào lên tận cổ. "Chúng ta cần rời đi trước khi quả bom rơi trúng!"

"Cậu ta chẳng biết gì kìa!" Olive cười khúc khích. "Cậu ta nghĩ chúng ta sắp chết cơ đấy!"

"Chỉ là thời điểm chuyển đổi thôi", Millard nói, kèm theo một cái nhún vai chiếc áo vest dạ tiệc của cậu ta. "Chẳng việc gì phải cuống cuồng lên thế đâu."

"Tối nào cũng thế này sao?"

Bà Peregrine gật đầu. "Tối nào cũng vậy", bà nói. Tuy vậy, tôi vẫn chưa hoàn toàn an tâm.

"Chúng em có thể ra ngoài và chỉ cho Jacob thấy không ạ?" Hugh hỏi. "Vâng, chúng em có thể ra không ạ?" Claire nài nỉ, đột nhiên trở nên hào

hứng sau hai mươi phút hờn dỗi. "Thời điểm chuyển đổi lúc nào cũng tuyệt đẹp!"

Bà Peregrine do dự, chỉ ra rằng đám trẻ vẫn chưa ăn xong bữa tối, nhưng họ nài nỉ bà cho tới khi bà mềm lòng. "Được rồi, miễn là tất cả các em đều đeo mặt nạ", bà nói.

Đám trẻ bật dậy khỏi ghế và ùa ra khỏi phòng, để cô bé Olive tội nghiệp lại sau cho tới khi ai đó thấy ái ngại và tới cởi cái đai buộc cô vào ghế. Tôi chạy theo sau họ qua ngôi nhà vào một căn phòng nghỉ ốp ván gỗ, tại đây mỗi người trong số họ đều vơ lấy thứ gì đó từ trong một cái tủ trước khi lao ra ngoài cửa. Bà Peregrine cũng đưa cho tôi một cái như thế, và tôi đứng xoay xoay món đồ đó trên tay. Trông nó giống như một khuôn mặt đàn hồi làm bằng cao su đen, có hai cái lỗ rộng lắp kính hệt như những con mắt đông cứng lại vì kinh hoảng, còn cái mũi thòng ra thành một ống trụ tròn, đáy có đυ.c lỗ."Tiến lên", bà Peregrine nói. "Đeo nó vào." Và rồi tôi nhận ra vật đó là gì: một cái mặt nạ phòng khí độc.

Tôi chụp nó lên mặt và đi theo bà ra bãi cỏ, đám trẻ đã đứng đó rải rác như những quân cờ trên một bàn cờ không kẻ ô, chẳng biết ai là ai đằng sau những chiếc mặt nạ, tất cả đều đang ngước lên, theo dõi những cuộn khói đen cuộn

trên bầu trời. Những ngọn cây đang cháy đùng đùng trong màn khói mù mịt ngoài xa. Tiếng ì ầm của những chiếc máy bay không thể trong thấy dường như vọng tới từ mọi hướng.

Thỉnh thoảng lại vọng tới một tiếng nổ ập ùng, tôi có thể cảm nhận nó dội lên trong l*иg ngực mình như tiếng đập của một trái tim nữa, kéo theo là những làn hơi bỏng rát, như thể ai đó vừa mở rồi đóng một cái lò ngay trước mặt tôi. Tôi nằm phục xuống theo mỗi cơn chấn động, nhưng đám trẻ thì chẳng hề nao núng lấy một giây. Thay vì thế họ hát, lời hát của họ được căn chính xác với nhịp nổ của những quả bom.

Chạy đi, thỏ, chạy đi, thỏ, chạy, chạy, CHẠY ĐI! Bùm, bùm, BÙM, súng người nông dân nổ

Ông ta sẽ vẫn ổn dù không có món bánh nhân thỏ, vậy nên Chạy đi, thỏ, chạy đi, thỏ, chạy, chạy, CHẠY ĐI!

Loạt đạn vạch những đường sáng chói lên nền trời đúng lúc bài hát kết thúc. Đám trẻ vỗ tay hoan hô như những khán giả chứng kiến một màn pháo hoa, những ánh chớp dữ dội đủ màu lóe sáng như những vết rạch trên mặt nạ họ đeo. Cuộc không kích ban đêm này đã trở thành một phần thường trực trong cuộc sống của họ, tới mức họ không còn nghĩ về nó như một điều gì đó khủng khϊếp - kỳ thực, bức ảnh chụp cảnh tượng này tôi từng thấy trong cuốn album của bà Peregrine được chú thích là Màn trình diễn tuyệt đẹp của chúng tôi. Và tôi cho rằng cảnh tượng này đúng là thế, theo cách thức chết chóc riêng của nó.

Trời bắt đầu lất phất mưa phùn, như thể những mảnh kim loại bay lượn trên không trung đã chọc thủng các đám mây. Những cơn rung chấn giảm dần. Cuộc không kích dường như đang đến hồi kết.

Những đứa trẻ bắt đầu rời đi. Tôi tưởng chúng tôi sẽ trở vào trong, nhưng họ đi qua cửa trước tới một phần khác của sân nhà.

"Chúng ta đi đâu đây?" tôi hỏi hai đứa trẻ đeo mặt nạ.

Họ không nói gì, nhưng có vẻ như cảm nhận được sự lo lắng của tôi, họ nhẹ nhàng cầm lấy tay tôi và dẫn tôi đi cùng những người khác. Chúng tôi đi vòng quanh nhà ra góc đằng sau, tất cả mọi người đang tập trung lại đó quanh một cái cây to được xén tỉa. Song cái cây này không được tạo hình thành một sinh vật thần thoại mà thành một người đang nằm trên bãi cỏ, một khuỷu tay chống xuống đỡ lấy thân mình, tay còn lại chỉ lên trời. Phải mất một lát tôi mới nhận ra đây là một bản sao bằng cành lá phần bích họa vẽ Adam của Michelangelo trên tường nhà nguyện Sistine. Tác phẩm này quả rất ấn tượng, nếu tính đến

việc nó được tạo thành từ các tán cây. Người ta gần như có thể nhận ra vẻ điềm tĩnh trên khuôn mặt của Adam, hai khóm dành dành đang nở kia chính là đôi mắt.

Tôi nhìn thấy cô gái có mái tóc rối bù hoang dại đang đứng ngay gần. Cô mặc một chiếc váy vải hoa đã vá víu nhiều lần đến nỗi trông chẳng khác gì một cái mền khâu chần. Tôi tới chỗ cô gái, chỉ về phía Adam và hỏi, "Có phải cậu đã tỉa nên cái này không?"

Cô gái gật đầu.

"Bằng cách nào vậy?"

Cô gái cúi xuống, giữ một lòng bàn tay phía trên mặt cỏ. Vài giây sau, một mảng cỏ hình bàn tay uốn éo vươn dài ra, mọc lên cho tới khi chúng chạm đến lòng bàn tay cô.

"Điên rồ quá", tôi nói. Rõ ràng, đầu óc tôi lúc này không phải đang ở trạng thái phân định mọi chuyện được rõ ràng nhất.

Ai đó bảo tôi im lặng. Tất cả đám trẻ đang đứng im lặng, nghển cổ nhìn về phía một vùng trời. Tôi ngước nhìn lên nhưng chỉ thấy những đám khói cùng ánh chớp lửa đạn màu cam phản chiếu lên chúng.

Rồi tôi nghe thấy tiếng động cơ của đúng một chiếc máy bay vang lên giữa những tiếng động khác. Nó rất gần, và ngày một gần hơn. Cơn hoảng loạn tràn ngập trong tôi. Đây chính là buổi tối họ bị gϊếŧ. Không chỉ là buổi tối đó, mà chính là khoảnh khắc này. Tôi tự hỏi có lẽ nào những đứa trẻ này chết đi vào mỗi buổi tối chỉ để rồi được vòng thời gian làm sống lại, như một giáo phái tôn thờ tự sát, buộc mình cứ vĩnh viễn bị nổ tung rồi lại được ghép lại nguyên hình?

Một vật nhỏ màu xám tách ra khỏi các đám mây và rít lên lao về phía chúng tôi. Một tảng đá, tôi nghĩ thầm, nhưng những tảng đá không rít lên khi rơi xuống như thế.

Chạy đi, thỏ, chạy đi, thỏ, chạy đi. Tôi hẳn đã làm thế nhưng giờ không còn thời gian nữa; tất cả những gì tôi có thể làm là hét toáng lên và nhào xuống đất tìm chỗ ẩn nấp. Nhưng chẳng có chỗ nào để ẩn nấp cả, vì vậy tôi nằm bẹp xuống cỏ, đưa hai cánh tay lên ôm lấy đầu như thể bằng cách nào hành động này sẽ giữ cho cái đầu gắn chặt vào cơ thể tôi.

Tôi nghiến chặt hàm và nhắm nghiền mắt lại, nín thở nhưng thay vì tiếng nổ đinh tai tôi chờ đợi, mọi thứ trở nên tĩnh lặng hoàn toàn, triệt để. Đột nhiên chẳng còn tiếng động cơ gầm rú, không còn tiếng bom vèo vèo, không còn tiếng súng nổ tung loạt ngoài xa. Cứ như thể ai đó đã làm cả thế giới câm lặng.

Tôi chết rồi sao?

Tôi bỏ hai tay ra khỏi đầu và chậm chạp nhìn ra đằng sau mình. Những lùm cây bị gió thổi uốn cong đang đông cứng tại chỗ. Bầu trời là một bức ảnh chụp những quầng lửa bất động vờn quanh một dải mây. Những giọt mưa treo lơ lửng ngay trước mắt tôi. Và ở giữa đám trẻ đang đứng thành vòng, trông giống như vật thờ trong một nghi lễ huyền bí nào đó, một quả bom đang lơ lửng, phần đầu mũi hướng xuống dưới của nó dường như đang thăng bằng trên ngón tay chìa ra của Adam.

Sau đó, như một bộ phim bị cháy trong máy chiếu khi bạn đang xem dở dang, một quầng sáng tuyền một màu trắng lóa nóng bỏng trải rộng ra trước mắt tôi, nuốt chửng tất cả.

Thứ đầu tiên tôi nghe thấy khi có thể nghe được trở lại là tiếng cười. Sau đó, màu trắng nhạt dần đi và tôi thấy tất cả chúng tôi đang ở quanh Adam đúng như trước đó, song lúc này quả bom đã biến mất, màn đêm trở lại yên tĩnh và thứ ánh sáng duy nhất trên bầu trời không một gợn mây là ánh trăng tròn. Bà Peregrine xuất hiện phía trên tôi và chìa tay ra. Tôi nắm lấy tay bà, loạng choạng đứng dậy, đầu óc quay cuồng."Cho ta xin lỗi", bà nói. "Đáng lẽ ta phải chuẩn bị cho cậu sẵn sàng hơn." Bạn đang đọc truyện tại T.r.u.y.e.n.D.K.M.com

Dẫu vậy, bà không giấu nổi nụ cười, và cả những đứa trẻ khác cũng vậy khi họ cởi bỏ mặt nạ ra. Tôi tin chắc mình vừa bị xỉu đi.

Tôi cảm thấy đầu óc quay cuồng, mệt mỏi. "Có lẽ đêm nay cháu nên quay về nhà ngủ", tôi nói với bà Peregrine. "Bố cháu sẽ lo lắng." Rồi tôi nhanh chóng nói tiếp, "Cháu có thể về nhà chứ, phải không?"

"Tất nhiên cậu có thể", bà đáp, và lớn tiếng hỏi xem ai tình nguyện đưa tôi về chỗ ngôi mộ đá. Tôi ngạc nhiên thấy Emma bước tới. Bà Peregrine có vẻ hài lòng.

"Bà có chắc về bạn ấy không?" tôi thì thầm hỏi cô phụ trách. "Mới vài tiếng trước bạn ấy còn sẵn sàng cắt cổ cháu đấy."

"Cô Bloom có thể nóng tính, nhưng cô bé là một trong những học viên ta tin tưởng nhất", bà đáp. "Vả lại ta nghĩ cậu và cô bé có thể có vài điều để trao đổi riêng, tránh khỏi những đôi tai tò mò."

Năm phút sau, hai chúng tôi đã lên đường, chỉ có điều lần này hai tay tôi không bị trói và cô gái không còn kề dao vào sườn tôi. Vài thành viên ít tuổi hơn trong đám trẻ đi theo chúng tôi tới tận rìa sân nhà. Họ muốn biết liệu ngày mai tôi có quay lại hay không. Tôi đưa ra những lời cam đoan mơ hồ, nhưng

quả thực tôi khó lòng để tâm vào những gì đang diễn ra ngay trong lúc này, chứ chưa nói gì tới tương lai.

Chỉ còn hai chúng tôi đi vào khu rừng tối tăm. Khi trại trẻ đã khuất hẳn sau lưng chúng tôi, Emma ngửa một bàn tay ra, lắc cổ tay, và một quả cầu lửa nhỏ xíu bùng lên ngay phía trên các ngón tay cô. Cô giơ nó ra phía trước mình như một người bồi bàn bưng khay, ánh lửa soi sáng con đường và hắt hai cái bóng của chúng tôi lên các thân cây.

"Tớ đã nói với cậu là chuyện đó thật tuyệt chưa nhỉ?" tôi lên tiếng, cố phá vỡ sự im lặng càng lúc càng thêm khó xử.

"Nó chẳng mát2 tí nào cả", cô đáp lại, chìa quầng lửa lại đủ gần để tôi có thể cảm thấy hơi nóng nó phả ra. Tôi né người tránh và lùi lại vài bước.

"Ý tớ không phải là... Ý tớ là cậu làm được như vậy thật tuyệt."

"À, cậu phải nói năng cho rành rọt tôi mới hiểu được chứ", cô gái gắt gỏng, rồi dừng bước.

Chúng tôi đứng đối diện nhau, giữ một khoảng cách thận trọng. "Cậu không phải sợ tôi", cô nói.

"À, thế ư? Làm sao tớ biết cậu không nghĩ tớ là một sinh vật xấu xa, còn đây không phải chỉ là một cái bẫy nhằm dụ tớ ra một mình để rốt cuộc cậu cũng có thể gϊếŧ tớ?"

"Đừng có ngốc thế", cô nói. "Cậu đến chẳng hề báo trước, cậu là một kẻ lạ mặt tôi không hề biết, rồi lại đuổi theo tôi như một gã điên. Tôi phải nghĩ gì đây?"

"Được, tớ hiểu rồi", tôi nói, mặc dù chẳng hiểu gì.

Cô gái đưa mắt nhìn xuống đất và bắt đầu dùng mũi ủng di di vào đất thành một cái lỗ nhỏ. Quả cầu lửa trên tay cô đã đổi màu từ da cam sang chàm dịu. "Những điều tôi đã nói không đúng. Tôi có nhận ra cậu." Cô ngước mắt lên nhìn tôi. "Cậu trông rất giống ông nội mình.""Thỉnh thoảng người ta cũng nói với tớ như thế."

"Tôi xin lỗi lúc trước đã nói tất cả những điều kinh khủng đó. Tôi không muốn tin rằng cậu đúng là người cậu nói. Tôi biết điều đó có nghĩa là gì."

"Được rồi", tôi đáp. "Khi còn bé hơn, tớ từng rất mong muốn được gặp tất cả mọi người. Bây giờ, chuyện đó cuối cùng đã diễn ra..." Tôi lắc đầu. "Thì tớ chỉ lấy làm tiếc là lại vì thế."

Rồi sau đó cô gái lao tới chỗ tôi, dang hai cánh tay ôm vòng quanh cổ tôi, ngọn lửa trên bàn tay cô đã tắt phụt ngay trước khi cô chạm vào tôi, làn da nơi cô đỡ lấy ngọn lửa vẫn còn nóng hổi. Chúng tôi cứ đứng như thế trong bóng tối một hồi, tôi và người phụ nữ cao tuổi với vẻ ngoài vị thành niên, hay đúng hơn là cô gái xinh đẹp từng yêu ông nội tôi khi ông bằng tuổi tôi bây giờ. Tôi chẳng thể làm gì ngoài việc cũng đưa hai cánh tay ôm lấy cô, vậy là tôi làm thế, và sau một hồi tôi đoán cả hai chúng tôi cùng khóc.

Tôi nghe thấy Emma hít một hơi thật sâu trong bóng tối, rồi buông tôi ra.

Ngọn lửa bùng sáng trở lại trên bàn tay cô. "Xin lỗi", cô nói. "Tôi không hay..." "Đừng lo về chuyện đó."

"Chúng ta nên đi tiếp." "Dẫn đường đi", tôi nói.

Chúng tôi đi bộ qua rừng trong sự im lặng dễ chịu. Khi tới chỗ đầm lầy, Emma nói, "Chỉ được đặt chân lên đúng chỗ tôi đặt chân thôi đấy", và tôi làm theo, đặt chân lên đúng vết chân của cô. Khí đầm lầy cháy lập lòe thành những đốm lửa màu xanh lục ở phía xa, như thể đồng điệu với nguồn sáng của Emma.

Chúng tôi tới được chỗ ngôi mộ đá và chui vào trong, bám theo nhau tới căn phòng đằng trong rồi quay trở ra, bước vào một thế giới chìm trong sương mù. Emma dẫn tôi trở lại lối mòn, và khi chúng tôi tới đó, cô đan tay lại với tay tôi và siết chặt. Chúng tôi lặng im trong giây lát. Sau đó, cô quay người trở lại, màn sương mù nuốt chửng lấy cô nhanh tới mức trong một khoảnh khắc tôi tự hỏi liệu có thực cô đã từng ở đó hay không.

Quay trở về thị trấn, tôi có phần trông đợi sẽ thấy những chiếc xe ngựa lăn bánh trên các con phố. Thay vì thế, tôi được chào đón bằng tiếng rù rù của máy phát điện và ánh sáng tỏa ra từ màn hình ti vi đằng sau cửa sổ các ngôi nhà. Tôi đã trở về nơi của mình, đúng như nó vốn thế.

Vẫn là Kev đang phục vụ ở quầy bar, ông ta giơ một chiếc cốc lên về phía tôi khi tôi bước vào. Không vị khách nào trong quán rượu đề xuất nện tôi một trận nhừ tử. Mọi thứ trên đời có vẻ đều ổn cả.

Tôi lên lầu thì thấy bố đang ngủ gật trước laptop bên cái bàn nhỏ xíu của chúng tôi. Khi tôi đóng cửa, ông giật mình bừng tỉnh.

"À! Chào con! Con ra ngoài muộn đấy. Đúng thế không nhỉ? Mấy giờ rồi?"

"Con không biết nữa", tôi nói. "Con nghĩ là chưa đến chín giờ. Đám khách uống rượu vẫn còn ngồi lại."

Bố vươn vai rồi dụi mắt. "Con đã làm gì hôm nay vậy? Bố đã hy vọng sẽ gặp con vào bữa tối."

"Con chỉ tìm hiểu thêm một chút ở chỗ trại trẻ cũ thôi." "Có tìm thấy gì hay không?""À... thực ra thì không hẳn", tôi nói, nhận thấy có lẽ đáng ra tôi phải để tâm nghĩ ra một câu chuyện thuyết phục hơn làm bình phong.

Bố nhìn tôi rất lạ. "Con lấy mấy thứ này ở đâu ra vậy?" "Lấy cái gì cơ ạ?"

"Quần áo con đang mặc", bố tôi nói.

Tôi nhìn xuống và nhận ra mình đã quên khuấy mất bộ đồ áo sơ mi quần vải tuýt có đai đeo tôi đang mặc. "Con nhặt được chúng trong trại trẻ", tôi đáp, vì không có thời gian để nghĩ ra một câu trả lời ít kỳ quái hơn. "Trong oách chứ ạ?"

Bố tôi nhăn mặt. "Con mặc quần áo nhặt được lên người sao? Jake, như thế thật mất vệ sinh. Mà chuyện gì đã xảy ra với quần jean và áo khoác của con rồi hả?"

Tôi cần phải thay đổi chủ đề. "Chúng bẩn kinh khủng quá rồi, thế nên con, ừm..." tôi ngừng lời, làm ra vẻ vừa nhận ra tài liệu đang mở trên màn hình máy tính của bố. "Ái chà, đó là cuốn sách của bố phải không? Nó thế nào rồi ạ?"

Bố tôi đóng sập màn hình laptop xuống. "Ngay lúc này thì cuốn sách của bố không phải là chuyện cần quan tâm tới. Điều quan trọng trong thời gian chúng ta ở đây là trị liệu cho con. Bố không rõ việc dành cả ngày một mình trong trại trẻ cũ đó có thực sự là điều bác sĩ Golan nghĩ đến hay không. Khi ông ấy bật đèn xanh cho chuyến đi này ấy."

"À, con nghĩ bố vừa lập kỷ lục đấy", tôi nói. "Cái gì?"

"Khoảng thời gian dài nhất từng trôi qua mà bố không nhắc tới bác sĩ tâm lý của con", tôi giả bộ đang nhìn xuống một cái đồng hồ đeo tay tưởng tượng. "Bốn ngày, năm giờ và hai mươi sáu phút." Tôi thở dài. "Khoảng thời gian đó thật quý báu."

"Ông ấy đã giúp ích cho con rất nhiều", bố tôi nói. "Chỉ Chúa mới biết nếu chúng ta không tìm được ông ấy thì bây giờ con đã đang ở trong tình trạng nào rồi."

"Bố nói đúng. Bác sĩ Golan đã giúp con. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông ta nhất thiết phải kiểm soát mọi thứ trong cuộc sống của con. Ý con là, lạy Chúa, như thế có khác gì bố mẹ mua cho con một cái lắc tay khắc dòng chữ Golan Sẽ Làm Gì Nhỉ? Như thế con có thể tự vấn bản thân trước khi làm bất cứ cái gì. Trước khi con đi vệ sinh. Bác sĩ Golan sẽ muốn con tống bãi phân đó xuống bên rìa hay đi ngay xuống giữa? Đâu là bãi phân hữu ích nhất về mặt tâm lý con có thể thải ra?"

Bố tôi không nói gì trong vài giây, và khi ông lên tiếng, giọng ông rất khẽ, khàn khàn. Ông nói với tôi là ngày mai tôi sẽ đi quan sát chim với ông dù tôi có thích hay không. Khi tôi trả lời là bố đã nhầm lẫn một cách đáng buồn, ông đứng dậy đi xuống quán rượu. Tôi nghĩ ông đi uống hay làm gì đó, vì thế tôi quay sang thay quần áo, nhưng vài phút sau bố tôi lại tới gõ cửa phòng ngủ của tôi và nói có người nào đó đang chờ tôi ở đầu dây điện thoại.

Tôi đoán người đó là mẹ, vậy là tôi nghiến chặt hai hàm răng và đi theo bố xuống nhà tới chỗ buồng điện thoại ở tận cái góc đằng xa của quán rượu. Ông đưa ống nghe cho tôi rồi tới ngồi xuống bên một cái bàn. Tôi đóng cửa buồng lại.

"A lô?"

"Tôi vừa nói chuyện với bố cậu", một người đàn ông nói. "Ông ấy có vẻ hơi lo lắng."

Đó là bác sĩ Golan.

Tôi muốn nói rằng cả ông ta và bố tôi đều cuốn xéo đi được rồi, nhưng tôi biết tình thế lúc này đòi hỏi một chút khéo léo. Nếu tôi làm Golan mếch lòng lúc này, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chuyến đi sẽ chấm hết. Tôi chưa thể rời đi, chưa thể đi trong khi còn quá nhiều điều cần tìm hiểu về những đứa trẻ đặc biệt. Vậy là tôi diễn kịch và thuật lại những gì tôi đã trải qua - tất cả ngoại trừ phần những đứa trẻ trong một vòng thời gian - và cố làm ra vẻ tôi đang đi dần tới quan điểm là chẳng có gì đặc biệt về hòn đảo hay ông nội tôi. Màn đối thoại này cũng giống như một buổi trị liệu nhỏ qua điện thoại vậy.

"Tôi hy vọng không phải cậu chỉ đang nói với tôi những gì tôi muốn nghe", ông ta nói. Đây đã trở thành một câu thông dụng của ông bác sĩ. "Có lẽ tôi nên tới đó và kiểm tra trực tiếp cậu. Tôi có thể tận dụng vài ngày nghỉ. Cậu thấy thế nào?"

Làm ơn hãy nói ông đang đùa đi, tôi thầm cầu khẩn. "Cháu không sao. Thật đấy", tôi nói.

"Thư giãn nào, Jacob, tôi chỉ đang đùa thôi, dù có Chúa làm chứng, tôi hoàn toàn có thể dành ra chút thời gian rời khỏi phòng khám. Và tôi thực sự tin cậu. Đúng là cậu nghe có vẻ ổn. Thực ra, vừa nãy tôi mới nói với bố cậu rằng có lẽ điều tốt nhất ông có thể làm là dành cho cậu một chút không gian tự do và để cậu tự mình giải quyết mọi thứ."

"Thật thế sao?"

"Cậu đã phải chịu đựng sự giám sát của bố mẹ cậu và tôi quá lâu rồi. Đến một mức nào đó, chuyện này thành ra phản tác dụng."

"À, cháu thực sự đánh giá cao điều đó."

Ông bác sĩ còn nói thêm gì đó nữa mà tôi hầu như không nghe được; có rất nhiều tiếng ồn từ phía đầu dây của ông ta. "Khó nghe chú nói quá", tôi nói. "Chú đang ở trung tâm thương mại hay sao vậy?"

"Sân bay", ông ta trả lời. "Tôi ra đón em gái. Dù sao đi nữa, tất cả những gì tôi muốn nói là hãy tận hưởng kỳ nghỉ đi. Khám phá và đừng lo lắng quá nhiều. Tôi sẽ sớm gặp lại cậu, được chứ?"

"Một lần nữa xin cảm ơn chú, bác sĩ G."

Khi gác máy, tôi cảm thấy áy náy vì lúc trước đã nói năng thật tệ về ông bác sĩ. Đến lúc này đã hai lần ông ta đứng ra bênh vực ủng hộ tôi trong khi chính bố mẹ tôi không hề làm thế.

Ở phía bên kia phòng, bố tôi đang đánh bạn với một vại bia. Tôi dừng lại chỗ bàn ông trên đường lên lầu. "Ngày mai thì..." tôi nói.

"Cứ làm những gì con muốn, bố cho là vậy." "Bố chắc chứ?"

Bố tôi cau có nhún vai. "Lệnh của bác sĩ mà." "Con sẽ quay về ăn tối. Con hứa đấy."

Bố tôi chỉ gật đầu. Tôi để ông ngồi lại dưới quầy bar và lên phòng đi ngủ.

Trong khi chìm vào giấc ngủ, dòng suy nghĩ của tôi lại tìm tới những đứa trẻ đặc biệt và câu đầu tiên họ hỏi sau khi bà Peregrine giới thiệu tôi: Jacob có ở lại với chúng ta không? Vào lúc ấy tôi đã nghĩ, Tất nhiên là không. Nhưng sao lại

không chứ? Nếu tôi không bao giờ quay về nhà, chính xác ra tôi sẽ thấy thiếu vắng cái gì chứ? Tôi hình dung ra ngôi nhà trống rỗng lạnh lẽo của mình, tới thị trấn không bạn bè đầy ắp những ký ức tệ hại, tới cuộc sống hoàn toàn chẳng có gì đáng chú ý đã được vạch sẵn ra cho tôi. Và tôi chợt nhận ra mình chưa bao giờ nghĩ tới chuyện chối bỏ nó.

Ghi chú:

Cũng như họ của cô Peregrine (một loại chim ưng), họ của tất cả các Chủ Vòng Thời Gian đều là tên các loài chim. Gannet là chim điên. Nightjar là cú muỗi. Avocet là chim mỏ cứng. Treecreeper là chim sâu. Bunting là chim sẻ đất. Finch là chim sẻ.

Jacob nói là "cool", theo ngôn ngữ giới trẻ hiện đại có thể hiểu là "hay, tuyệt", nhưng nghĩa gốc của từ này là "mát", Emma hiểu theo nghĩa này.