Vào tối thứ Ba, phần lớn những điều tôi nghĩ mình đã hiểu về bản thân hóa ra đều sai cả. Đến tối Chủ nhật, bố tôi và tôi đã dự kiến sẽ thu xếp hành lý về nhà. Tôi chỉ còn vài ngày để quyết định xem nên làm gì. Ở lại hay ra đi - chẳng lựa chọn nào có vẻ tốt. Làm sao tôi có thể ở lại đây và bỏ sau lưng mọi thứ tôi đã biết? Nhưng sau tất cả những gì đã tìm hiểu được, làm sao tôi có thể về nhà đây?
Tệ hơn thế, chẳng có ai tôi có thể tâm sự về việc đó. Kể với bố thì không được rồi. Emma thường xuyên đưa ra những lý lẽ tha thiết để thuyết phục tôi ở lại, song chẳng có lời nào trong đó nhắc đến cuộc sống tôi sẽ phải từ bỏ (cho dù nó có tầm thường đến đâu đi nữa), hay sự biến mất đột ngột không thể lý giải nổi của đứa con duy nhất có thể tác động thế nào tới bố mẹ tôi, hay cảm giác tù túng ngột ngạt mà chính Emma đã thú nhận cô cảm thấy khi ở trong vòng thời gian. Cô hẳn sẽ chỉ nói, "Sẽ tốt hơn khi có cậu ở đây."
Bà Peregrine còn chẳng giúp được bằng chừng đó. Câu trả lời duy nhất của bà là bà không thể đưa ra một quyết định như thế cho tôi dù tôi chỉ muốn nói đến cùng cho rõ. Dẫu vậy, rõ ràng bà muốn tôi ở lại ngoài sự an toàn của bản thân tôi, sự hiện diện của tôi trong vòng thời gian sẽ làm cho những người khác an toàn hơn. Nhưng tôi không có hứng thú với ý tưởng dành cả cuộc đời mình làm lính canh cho họ. (Tôi bắt đầu ngờ rằng ông tôi đã có cảm giác tương tự, và đó là một phần lý do ông từ chối quay lại sau chiến tranh.)
Gia nhập cùng đám trẻ đặc biệt cũng sẽ có nghĩa là tôi không thể học xong trung học hay vào đại học, hoặc làm bất cứ việc gì trong số những điều bình thường người ta vẫn làm khi trưởng thành. Đến đây, tôi lại phải nhắc nhở bản thân liên tục là tôi không phải người bình thường, và chừng nào các hồn rỗng còn tiếp tục săn đuổi tôi, bất cứ cuộc sống nào bên ngoài vòng cũng sẽ gần như chắc chắn rất ngắn ngủi. Tôi sẽ phải dành phần đời còn lại của mình sống trong sợ hãi, luôn phải nhìn trước ngó sau, bị những cơn ác mộng giày vò, chờ đợi khoảnh khắc khi cuối cùng chúng cũng tới và tiễn tôi sang thế giới bên kia. Đoạn kết này nghe còn ngán ngẩm hơn nhiều so với chuyện bỏ lỡ đại học.
Sau đó tôi nghĩ: chẳng lẽ không có lựa chọn thứ ba sao? Chẳng lẽ tôi không thể như ông nội Portman, trong năm mươi năm đã sống thoải mái và đánh bại đám hồn rỗng ở bên ngoài vòng thời gian sao? Đến đây, giọng nói tự ti trong đầu tôi lại chen vào.
Ông đã được huấn luyện trong quân ngũ, đồ ngốc. Ông là một tay cứng cựa có cái đầu lạnh. Ông chẳng khác gì một kho vũ khí di động đầy ắp súng gắn đạn ghém nòng ngắn. Đem so với cậu thì ông đúng là Rambo đấy.
Tôi có thể đăng ký một lớp học bắn súng, phần lạc quan trong tôi liền nghĩ.
Học Karate. Rèn luyện thể lực.
Đùa đấy à, anh bạn? Cậu thậm chí còn chẳng thể bảo vệ nổi bản thân ở trường trung học! Cậu phải mua chuộc thằng nhóc lỗ mãng kia làm vệ sĩ cho mình. Và chỉ cần chĩa một khẩu súng thật vào ai đó thôi là cậu đã tè cả ra quần rồi.
Không, tôi sẽ không như thế.
Cậu là một kẻ yếu đuối. Cậu là một kẻ thua cuộc. Đó là lí do vì sao ông nội không bao giờ nói cho cậu biết cậu thực sự là ai. Ông biết cậu sẽ không thể gánh vác nổi điều đó.Im đi. Im đi.
Suốt nhiều ngày tôi cứ nghiêng đi ngả lại giữa hai dòng nước như thế. Ở lại hay ra đi. Tôi bị ám ảnh triền miên mà không tìm ra nổi một giải pháp nào. Trong khi đó, bố đã hoàn toàn cạn hứng với cuốn sách của mình. Ông càng làm việc ít đi thì càng trở nên thoái chí nhiều hơn, và càng thoái chí thì ông lại càng dành nhiều thời gian hơn ở quầy bar. Tôi chưa bao giờ thấy ông uống kiểu đó trước đây - sáu bảy chai bia một tối - và tôi không muốn ở gần bố khi ông như vậy. Tâm trạng ông rất tệ, và những lúc không lầm lì im lặng, ông sẽ nói với tôi những điều tôi thực sự không muốn biết.
"Thể nào cũng có ngày mẹ con bỏ bố", ông nói vào một buổi tối. "Nếu bố không làm ra được gì đó thật sớm, bố thực sự nghĩ mẹ sẽ làm thế."
Tôi bắt đầu tránh ông. Tôi không chắc thậm chí ông nhận ra điều đó. Việc nói dối lúc đi về với tôi trở nên dễ dàng đến phát nản.
Trong lúc đó, tại trại trẻ đặc biệt, bà Peregrine áp đặt tình trạng gần như khóa trái cửa. Cứ như thể tình trạng thiết quân luật vừa được ban bố: những đứa trẻ ít tuổi hơn không được phép đi đâu mà không có người đi cùng, những đứa trẻ lớn hơn cần đi theo cặp, và bà Peregrine phải biết tất cả mọi người đang ở đâu vào bất cứ lúc nào. Chỉ nguyên việc xin được ra ngoài cũng đã khổ công lắm rồi.
Những người trực gác được cắt cử luân phiên để quan sát đằng trước và đằng sau trại trẻ. Vào bất cứ lúc nào, cả ban ngày và phần lớn buổi đêm, bạn cũng có thể thấy những khuôn mặt buồn chán đang ngó ra qua các cửa sổ. Nếu trông thấy ai đó lại gần, họ sẽ giật một sợi dây kéo làm rung một cái chuông trong phòng bà Peregrine, nghĩa là bất cứ khi nào tôi tới nơi, bà cũng đang đợi bên trong cửa để thẩm vấn tôi. Tình hình bên ngoài vòng thế nào? Tôi có thấy gì lạ không? Tôi có chắc mình không bị bám theo không?
Không mấy ngạc nhiên, đám trẻ bắt đầu trở nên bứt rứt. Những đứa bé trở nên cáu bẩn trong khi những đứa lớn hơn rầu rĩ, phàn nàn về những quy định mới với giọng vừa đủ lớn để người khác nghe thấy. Những tiếng thở dài ngao ngán chợt vang lên trong không khí thường là manh mối duy nhất cho biết Millard vừa lang thang vào một căn phòng. Bầy ong của Hugh bay khắp nơi và đốt mọi người cho tới khi chúng bị cấm cửa bên ngoài nhà, sau đó Hugh dành toàn bộ thời gian ngồi bên khung kính cửa sổ, trong khi bầy ong của cậu ta bu đầy bên kia mặt kính.
Olive, tuyên bố cô đã để thất lạc mất đôi giày trọng lực của mình, thường xuyên bò qua bò lại trên trần nhà như một con ruồi, rắc những hạt gạo xuống đầu người khác cho tới khi họ ngẩng đầu lên và nhận ra cô, lúc đó cô mới phá lên cười hết cỡ, tới mức khả năng bay của cô không còn được duy trì, và cô phải bám vào một chùm đèn hay một thanh treo rèm để khỏi bị rơi xuống. Lạ lùng hơn cả là Enoch, cậu này biến mất xuống phòng thí nghiệm dưới tầng hầm để thực hiện các thí nghiệm giải phẫu có thể khiến Tiến sĩ Frankenstein phải cúi đầu ngưỡng mộ trên đám lính đất sét của mình: cắt cụt chân hai chú lính để biến chú lính thứ ba thành một thứ người nhện quái gở, hay nhét bốn quả tim gà vào một l*иg ngực duy nhất trong nỗ lực nhằm tạo nên một siêu nhân đất sét không bao giờ cạn năng lượng. Lần lượt, những thân thể bé nhỏ màu xám của chúng đều gục ngã dưới thử thách, và tầng hầm thành ra giống một quân y viện dã chiến thời Nội chiến.Về phần mình, bà Peregrine cứ luôn tay luôn chân, hút hết tẩu thuốc này đến tẩu thuốc khác trong khi tập tễnh đi từ phòng này sang phòng khác để kiểm tra đám trẻ như thể chỉ rời khỏi tầm mắt bà là chúng có thể biến mất ngay lập tức. Bà Avocet ở lại, thỉnh thoảng lại thức tỉnh khỏi cơn mê mệt để lang thang theo các hành lang, khổ sở gọi tên những đứa trẻ tội nghiệp bị bỏ rơi của bà trước khi ngã quỵ trên tay ai đó để rồi được đưa trở lại giường. Tiếp theo là vô vàn phỏng đoán hoang tưởng về tai họa bi thảm của bà Avocet cùng lý do tại sao các hồn rỗng lại muốn bắt cóc các Chủ Vòng Thời Gian, với đủ giả thuyết từ kỳ quái (như để tạo ra vòng thời gian lớn nhất trong lịch sử, đủ để bao trùm cả hành tinh) đến lạc quan một cách lố bịch (như để làm bạn chơi với các hồn rỗng, một quái vật khủng khϊếp chuyên ăn các linh hồn cũng có thể trở nên vô cùng cô đơn).
Cuối cùng, một sự im lặng nặng nề đè nặng lên trại trẻ. Hai ngày giam hãm đã làm tất cả mọi người bơ phờ. Tin rằng hoạt động thường nhật là cách tốt nhất chống lại trầm uất, bà Peregrine cố gắng thu hút sự quan tâm của mọi người bằng việc chuẩn bị các bữa ăn mỗi ngày, và bằng cách giữ cho ngôi nhà ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng bất cứ khi nào không nhận lệnh trực tiếp là phải làm gì đó, đám trẻ lại nặng nề ngồi ủ rũ xuống những chiếc ghế tựa, mắt nhìn chăm chăm vô hồn qua các khung cửa sổ khóa trái, lần giở những cuốn sách quăn mép chúng đã đọc qua cả trăm lần trước đó hay ngủ.
Tôi chưa bao giờ tận mắt thấy năng lực đặc biệt của Horace cho đến một buổi tối cậu ta bắt đầu la hét. Đám chúng tôi hối hả lao lên cầu thang tới chỗ tầng áp mái, nơi cậu ta đang làm nhiệm vụ cảnh giới và bắt gặp cậu ta cứng đờ trên một chiếc ghế, hai bàn tay chới với quờ quạng trong không khí đầy kinh hãi, như thể đang cố bấu víu lấy thứ gì đó trong cơn ác mộng. Thoạt đầu, cậu ta chỉ la ầm ĩ, nhưng sau đó bắt đầu lắp bắp, gào thét về cái gì mà mặt biển sôi sùng sục và tro trút xuống như mưa từ trên bầu trời và một thảm khói vô tận phủ kín mặt đất. Sau vài phút không ngừng lảm nhảm những lời tiên đoán như về tận thế này, có vẻ đã kiệt sức, cậu ta chìm vào giấc ngủ chập chờn.
Những người khác đã chứng kiến chuyện này xảy ra trước đây - thường xuyên đến mức có cả ảnh chụp những lần lên đồng của cậu ta trong cuốn album của bà Peregrine và họ biết phải làm gì. Theo chỉ dẫn của cô phụ trách, đám trẻ khiêng cậu ta về giường, và khi tỉnh lại vài giờ sau đó cậu ta khẳng định không nhớ gì về giấc mơ, mà những giấc mơ cậu ta không thể nhớ được thì hiếm khi trở thành sự thật. Những người khác chấp nhận điều này vì họ còn có quá nhiều điều khác để lo lắng. Tôi cảm thấy cậu ta đang giấu chuyện gì đó.
Khi ai đó mất tích ở một thị trấn nhỏ bé như Cairnholm, người ta sẽ nhận ra ngay. Chính vì vậy, vào thứ Tư, khi ông Martin không mở cửa bảo tàng như thường lệ hay rẽ vào Priest Hole làm một chầu rượu tối theo thói quen, người ta bắt đầu băn khoăn liệu có phải ông ta bị ốm hay không, và khi vợ Kev đến nhà ông ta kiểm tra, bà ta thấy cửa trước để mở, ví và kính của ông Martin để trên quầy bếp nhưng không có ai trong nhà, người ta bắt đầu bàn tán liệu có phải ông ta đã chết. Khi thấy ông ta vẫn không xuất hiện vào ngày hôm sau, một đám đàn ông được phái đi mở cửa tất cả các chuồng gia súc, tìm bên dưới những chiếc thuyền lật úp, tìm kiếm ở mọi nơi xem biết đâu người đàn ông độc thân mê whisky này say quá mà ngủ quên mất. Nhưng họ chỉ mới bắt đầu thì có một cuộc gọi qua radio sóng ngắn cho biết: thi thể ông Martin đã được kéo lên ngoài biển.Khi người ngư dân đã tìm thấy ông ta đi vào quán rượu thì tôi đang ở đó cùng bố. Lúc đó mới tầm giữa trưa, nhưng ông này vẫn được đưa cho một chai bia theo đúng nguyên tắc phục vụ, và chỉ trong vòng vài phút, người đàn ông đã thuật lại câu chuyện của mình.
"Lúc đó tôi đang ở trên chỗ mũi Gannet để kéo lưới", ông ta bắt đầu. "Lưới nặng kinh khủng, một chuyện thật lạ vì bình thường ở đó tôi chỉ kéo được rất ít, gần như chẳng có gì, vài con tôm vớ vẩn, thế thôi. Nghĩ rằng mình đã kéo phải một l*иg bẫy cua, tôi liền vớ lấy cây lao có mấu và quờ quạng bên dưới thuyền cho tới khi nó móc vào thứ gì đó." Tất cả chúng tôi cùng nhích người lui lại trên ghế của mình, như thể đang trong giờ kể chuyện tại một trường mẫu giáo quái gở nào đó. "Đó chính là Martin. Có vẻ như ông ta đã rơi từ trên một vách đá xuống và bị đám cá mập rỉa. Có Chúa mới biết ông ta lang thang làm gì ngoài chỗ vách đá giữa đêm khuya trong khi chỉ choàng độc cái áo và đi dép."
"Ông ta không mặc đồ à?" Kev hỏi.
"Có lẽ đồ để ngủ thôi", người ngư dân nói. "Không phải để ra ngoài trời mưa."
Người ta cầu nguyện vài lời ngắn ngủi cho linh hồn ông Martin, đoạn bắt đầu trao đổi các giả thiết. Chỉ trong vòng vài phút, quán rượu trở thành nơi họp bàn mịt mờ khói thuốc của các Sherlock Holmes chếnh choáng hơi men.
"Có thể ông ta say", một người đoán liều.
"Mà nếu ông ta lang thang ra chỗ vách đá, có thể ông ta chính là kẻ gϊếŧ cừu và lúc đó đang bị săn đuổi", một người khác nói.
"Thế còn cái gã mới tới trông như con sóc ấy thì sao?" ông ngư dân kia nói. "Cái tay vẫn cắm trại ấy."
Bố tôi thẳng người dậy trên cái ghế đẩu chân cao đang ngồi. "Tôi đã bắt gặp anh ta", ông nói. "Tối hôm kia."
Tôi ngạc nhiên quay sang bố. "Sao bố chẳng kể gì với con?"
"Tôi cố đến nhà thuốc trước khi đóng cửa, còn anh chàng này đi theo hướng ngược lại, ra khỏi thị trấn. Có vẻ rất vội. Tôi đυ.ng vào vai anh ta khi anh ta đi ngang qua và làm anh ta bực mình. Anh ta dừng lại nhìn chằm chằm vào tôi. Cố dọa nạt. Tôi nhìn thẳng vào mặt anh ta, bảo là tôi muốn biết anh ta đang làm gì ở đây, đang có mục đích gì. Ở đây ai cũng nói về mình cả, tôi nói vậy."
Kev cúi người qua quầy bar. "Và?"
"Trông anh ta như sắp sửa đấm tôi một cú, nhưng rồi chỉ bỏ đi."
Rất nhiều người thắc mắc - một nhà điểu cầm học thì làm gì, tại sao tay kia lại cắm trại, và nhiều điều khác tôi vốn đã biết. Tôi chỉ có một câu đang nóng lòng muốn hỏi. "Bố có để ý thấy điều gì lạ về ông ta không? Khuôn mặt ấy?"
Bố tôi nghĩ trong giây lát. "À, thực ra thì có. Anh ta đeo kính râm." "Vào buổi tối sao?"
"Nghe thật kỳ cục."
Cảm giác buồn nôn cuộn lên trong tôi, và tôi tự hỏi bố tôi đã cận kề một chuyện còn tồi tệ hơn một cuộc so nắm đấm đến mức nào. Tôi biết mình cần phải kể cho bà Peregrine biết chuyện này - và thật sớm.
"À, khỉ thật", Kev nói. "Đã hàng trăm năm nay không có vụ gϊếŧ người nào ở Cairnholm. Tại sao lại có ai đó muốn gϊếŧ ông già Martin chứ? Nghe chẳng có lý gì cả. Tôi dám cược một chầu cho tất cả các vị là kết quả giải phẫu tử thi được trả về sẽ cho thấy ông ta đã xỉn quắc cần câu.""Có thể phải mất khá lâu trước khi có kết quả đấy", ông ngư dân nói. "Cơn bão đang tràn đến, người dự báo thời tiết nói nó sẽ rất dữ dội. Trận bão tệ nhất chúng ta phải chịu trong cả năm nay."
"Người dự báo thời tiết nói", Kev dè bỉu. "Tôi sẽ không tin gã khốn ngớ ngẩn ấy biết liệu bây giờ trời có đang mưa hay không."
Người dân trên đảo thường đưa ra những dự báo ảm đạm về những gì Mẹ Thiên nhiên định dành cho Cairnholm - nói gì thì nói, họ cũng nằm dưới sự khống chế của các yếu tố thiên nhiên, và bản chất vốn đã bi quan nhưng lần này những lo ngại tồi tệ nhất của họ đã được xác nhận. Gió và mưa vốn trút xuống hòn đảo suốt cả tuần đến tối hôm ấy bỗng mạnh lên thành một cơn bão tồi tệ ập tới tối sầm trời đất và làm mặt biển cuộn sóng ngầu bọt. Giữa những tin đồn về việc ông Martin đã bị sát hại và thời tiết thị trấn cũng rơi vào cảnh cửa đóng then cài chẳng kém gì trại trẻ. Mọi người ở tịt trong nhà. Các cánh cửa chớp đóng chặt, cửa ra vào được cài chốt chặt. Ngoài bến đậu, các con thuyền va đập vào nhau trong cơn sóng mạnh nhưng không chiếc nào rời bến ra khơi trong một cơn cuồng phong như vậy chẳng khác gì tự sát. Và bởi vì cảnh sát trong đất liền không thể ra nhận thi thể ông Martin cho tới khi biển lặng, cư dân thị trấn buộc phải giải quyết câu hỏi phiền toái về chuyện cần làm gì với cái xác. Cuối cùng, người ta quyết định rằng ông chủ hàng cá, người tích trữ nhiều nước đá nhất trên đảo, sẽ giữ lạnh nạn nhân đằng sau cửa hàng của mình, giữa những con cá hồi, cá tuyết và các thứ hải sản khác. Những thứ cũng giống như ông Martin, đã được vớt lên từ biển.
Tôi phải nghe theo yêu cầu nghiêm khắc của bố là không được rời Priest Hole, nhưng tôi cũng bị ràng buộc bởi yêu cầu của bà Peregrine phải báo lại bất cứ sự lạ nào xảy ra - và nếu một cái chết đáng ngờ không phải là sự lạ thì chẳng còn gì đáng gọi như vậy nữa. Thế là tối đó tôi giả bộ bị cúm và khóa trái mình lại trong phòng, sau đó trèo qua cửa sổ rồi tụt xuống đất theo ống thoát nước. Không còn ai ngớ ngẩn đến mức mò ra ngoài, vì thế tôi chạy một mạch theo đường cái mà không sợ bị phát hiện, mũ trùm áo khoác đập phành phạch dưới cơn mưa như roi quất.
Khi tôi tới trại trẻ, bà Peregrine đưa mắt nhìn tôi một cái là biết ngay có chuyện gì đó không ổn. "Có chuyện gì xảy ra vậy?" bà hỏi, đôi mắt nổi đầy tia máu nhìn khắp người tôi dò hỏi.
Tôi kể lại tất cả với bà, mọi chi tiết vụn vặt và những tin đồn tôi hóng được, mặt bà liền tái nhợt. Bà hối hả kéo tôi vào trong phòng khách, trong cơn hốt hoảng, bà đã tập hợp tất cả những đứa trẻ có thể tìm thấy lại đó rồi vội vã tập
tễnh bước ra tìm số ít còn lại đã tảng lờ tiếng gọi của bà. Số còn lại bị để đứng đó, lo lắng và bối rối.
Emma và Millard dồn tôi vào góc. "Tại sao cô lại cuống lên thế?" Millard hỏi.
Tôi khẽ kể cho họ biết về ông Martin. Millard tặc lưỡi còn Emma khoanh tay lại, trông có vẻ lo lắng.
"Có thực là nghiêm trọng đến thế không?" tôi hỏi.
"Ý tớ là, chuyện đó không thể do các hồn rỗng gây ra. Chúng chỉ săn đuổi người đặc biệt thôi, phải không?"Emma rên lên. "Cậu muốn nói cho cậu ấy biết, hay tớ sẽ nói đây?"
"Hồn rỗng ưa thích người đặc biệt hơn nhiều so với người thường", Millard giải thích, "nhưng chúng có thể ăn thịt bất cứ cái gì để sống, miễn đó là cơ thể sống và có máu thịt."
"Đó là một trong những cách để cậu biết có thể có một hồn rỗng lẩn khuất xung quanh", Emma nói. "Xác chết sẽ liên tục xuất hiện. Đó là lý do vì sao chúng chủ yếu du cư. Nếu chúng không thường xuyên di chuyển từ nơi này sang nơi khác, người ta sẽ rất dễ lần ra chúng."
"Thường xuyên đến mức nào?" tôi hỏi, một cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng. "Ý tớ là chúng có cần ăn không?"
"À, rất thường xuyên", Millard nói. "Xoay xở bữa ăn cho đám hồn rỗng là việc đám xác sống dành phần lớn thời gian của chúng để làm. Chúng tìm kiếm những người đặc biệt khi có thể, nhưng một phần đáng kể công sức và nỗ lực của chúng là dành cho việc lùng tìm những nạn nhân bình thường, cả thú vật lẫn người, cho bọn hồn rỗng, sau đó xóa dấu vết." Cậu ta nói đầy vẻ uyên bác, như thể đang bàn luận về thói quen sinh sản của một loài gặm nhấm tương đối thú vị nào đó.
"Nhưng đám xác sống không bị bắt sao?" tôi nói. "Ý tớ là chúng tiếp tay cho việc gϊếŧ người, các cậu có nghĩ..."
"Một số bị bắt", Emma nói. "Tớ cược là cậu đã nghe thấy không ít, nếu cậu theo dõi tin tức. Có một gã bị người ta tìm thấy cùng những cái đầu người để trong thùng lạnh và một cái nồi to đựng đầy phủ tạng băm nhỏ đang đun sôi lăn tăn, cứ như thể hắn đang chuẩn bị bữa tối Giáng sinh vậy. Tính theo thời đại của cậu thì chuyện này xảy ra cũng chưa lâu lắm."
Tôi nhớ - chỉ lờ mờ - về một chương trình ti vi đặc biệt giật gân phát lúc tối muộn về một kẻ gϊếŧ người hàng loạt và ăn thịt người ở Milwaukee, hắn đã bị bắt trong hoàn cảnh ghê rợn tương tự.
"Ý cậu là... Jeffrey Dahmer?"
"Tớ tin rằng đó là tên của quý ông nọ, phải", Millard nói. "Một vụ đáng kinh ngạc. Dường như hắn chưa bao giờ mất đi sự thèm muốn thịt sống, cho dù hắn đã không còn là hồn rỗng trong nhiều năm."
"Tớ cứ nghĩ các cậu đáng lẽ không biết gì về tương lai cơ đấy", tôi nói.
Emma mỉm cười dè dặt. "Chim chỉ giữ lại những điều tốt ở tương lai cho riêng cô ấy, nhưng cậu có thể cược là bọn tớ được nghe tất cả những chuyện khiến người ta bĩnh ra quần."
Sau đó, bà Peregrine quay lại, nắm tay áo Enoch và Horace lôi theo sau. Tất cả mọi người đều đứng nghiêm.
"Chúng ta vừa được biết tin về một mối đe dọa mới", bà nói, rồi dành cho tôi một cái gật đầu tán thưởng. "Một người đàn ông bên ngoài vòng của chúng ta đã chết một cách đáng ngờ. Chúng ta không thể biết chắc nguyên nhân cái chết hay liệu điều đó có báo hiệu một mối đe dọa cho sự an toàn của chúng ta hay không, nhưng chúng ta cần xử sự như thể là có. Cho tới khi có thêm thông báo, không ai được phép ra khỏi nhà, thậm chí là để hái rau hay mua một con ngỗng về cho bữa tối."
Tất cả cùng rên lên, đáp lại, bà Peregrine cao giọng, "Mấy ngày vừa rồi đúng là thử thách với tất cả chúng ta. Cô mong các em hãy tiếp tục kiên nhẫn."Những bàn tay giơ lên quanh phòng, nhưng bà dứt khoát từ chối mọi câu hỏi và đi ra ngoài để khóa các cửa ra vào. Tôi hốt hoảng chạy theo bà. Nếu thực sự có thứ gì đó nguy hiểm trên đảo, nó có thể gϊếŧ tôi ngay khi tôi bước chân ra bên ngoài vòng. Nhưng nếu ở lại đây, tôi sẽ bỏ mặc bố tôi không được bảo vệ, đó là chưa kể tới việc ông sẽ lo điên lên vì tôi. Điều đó có vẻ còn tồi tệ hơn.
"Cháu cần đi", tôi nói khi bắt kịp bà Peregrine.
Bà kéo tôi vào trong một căn phòng trống rồi đóng cửa lại. "Cậu phải hạ giọng xuống", bà ra lệnh, "và cậu phải tôn trọng quy định của ta. Những gì ta đã nói áp dụng cho cả cậu nữa. Không ai rời khỏi trại trẻ này hết."
"Nhưng..."
"Cho tới giờ ta đã cho cậu quyền tự chủ chưa hề có tiền lệ trong việc đến và đi như cậu muốn, xuất phát từ việc tôn trọng vị thế đặc biệt của cậu. Nhưng có thể cậu đã bị bám theo tới đây, và việc đó đẩy tính mạng những đứa trẻ ta quản lý vào cảnh rủi ro. Ta sẽ không cho phép cậu gây nguy hiểm cho chúng - hay cho chính cậu - thêm nữa."
"Bà không hiểu sao?" tôi bực bội nói. "Thuyền không thể ra khơi được. Những người dân trong thị trấn đang mắc kẹt. Bố cháu cũng mắc kẹt. Nếu thực sự có một xác sống, và hắn chính là kẻ cháu đã nghĩ, thì thiếu chút nữa hắn và bố cháu đã đánh nhau rồi. Nếu hắn vừa đem một người hoàn toàn xa lạ ra làm mồi cho một con hồn rỗng thì bà nghĩ xem hắn sẽ tìm đến ai tiếp theo?"
Khuôn mặt bà vẫn như tạc bằng đá. "An nguy của cư dân thị trấn không phải là trách nhiệm của ta", bà nói. "Ta sẽ không đẩy đám trẻ ta phụ trách vào cảnh nguy hiểm. Dù vì bất kì ai."
"Đó không chỉ là cư dân thị trấn. Còn là bố cháu nữa. Bà thực sự nghĩ vài cánh cửa khóa trái có thể ngăn cản cháu ra đi sao?"
"Có thể là không. Nhưng nếu cậu khăng khăng muốn rời khỏi đây, ta kiên quyết yêu cầu cậu không bao giờ quay lại nữa."
Tôi bị sốc đến mức phải bật cười. "Nhưng bà cần cháu", tôi nói. "Phải, chúng ta cần cậu", bà đáp. "Rất cần."
Tôi đùng đùng lao lên lầu tới phòng Emma. Bên trong là một cảnh tuyệt vọng dường như bước ra từ một bức tranh của Norman Rockwell, nếu Norman Rockwell từng vẽ những người trải qua thời gian khổ sở trong tù. Bronwyn nhìn chằm chằm vô hồn ra ngoài cửa sổ. Enoch ngồi dưới sàn, chuốt gọt một khối đất sét cứng. Emma đang ngồi bên mép giường, hai khuỷu tay chống lên đầu gối, xé những tờ giấy ra từ một cuốn sổ tay rồi đốt cháy chúng giữa các ngón tay mình.
"Cậu đây rồi!" cô thốt lên khi tôi bước vào.
"Tớ đã đi đâu", tôi đáp. "Bà Peregrine không cho tớ đi." Mọi người lắng nghe trong khi tôi giải thích cảnh tiến thoái lưỡng nan của mình. "Tớ sẽ bị cấm trở lại nếu cố rời đi."
Cả cuốn sổ tay của Emma đã cháy hết. "Cô ấy không thể làm thế!" cô kêu lên, không hề để ý đến ngọn lửa đang liếʍ vào bàn tay mình.
"Cô ấy có thể làm những gì cô ấy thích", Bronwyn nói. "Cô ấy là Chim." Emma ném cuốn sổ của cô xuống và dập tắt lửa."Tớ tới chỉ để nói cho cậu biết tớ sẽ đi, dù bà ấy có muốn hay không. Tớ sẽ không để bị cầm tù, và tớ sẽ không rúc đầu tìm chỗ trốn trong khi chính bố tớ đang gặp nguy hiểm thực sự."
"Vậy tớ sẽ đi với cậu", Emma nói. "Cậu đùa à", Bronwyn lên tiếng.
"Tớ nghiêm túc đấy."
"Điều cậu đang nói thật ngớ ngẩn", Enoch nói. "Cậu sẽ biến thành một quả mận héo nhăn nheo, và vì cái gì chứ? Cậu ta à?"
"Tớ sẽ không bị", Emma nói. "Cậu phải ra ngoài vòng nhiều giờ đồng hồ liền thì thời gian mới bắt kịp cậu, và chuyện này sẽ không mất nhiều thời gian đến thế, phải không nào, Jacob?"
"Đó là một ý tưởng tồi", tôi nói.
"Ý tưởng tồi là sao?" Enoch nói. "Bạn ấy thậm chí còn chẳng biết mình đang mạo hiểm tính mạng để làm gì."
"Cô phụ trách sẽ không thích chuyện này đâu", Bronwyn nói, chỉ ra chuyện đương nhiên. "Cô sẽ gϊếŧ bọn tớ mất. Em."
Emma đứng dậy và đóng cửa. "Cô ấy sẽ không gϊếŧ chúng ta", cô nói, "những con quái vật kia thì có. Và dù chúng không làm thế, thì sống như thế này có khi còn tồi tệ hơn cả chết. Chim kèm chúng ta chặt đến mức chúng ta hầu như không thở nổi nữa, và tất cả chỉ vì cô ấy không có đủ can đảm để đối đầu với những thứ ở ngoài kia!"
"Hoặc không có ở ngoài kia", Millard nói, tôi đã không nhận ra cậu ta vẫn ở trong phòng cùng chúng tôi.
"Nhưng cô ấy sẽ không thích điều đó", Bronwyn nhắc lại.
Emma dấn một bước về phía bạn mình thách thức, "Cậu có thể nấp sau váy cô ấy bao lâu đây?"
"Cậu đã quên chuyện gì đã xảy ra với cô Avocet rồi sao?" Millard nói. "Chỉ khi những đứa trẻ cô ấy phụ trách rời khỏi vòng thì chúng mới bị gϊếŧ và cô Bunting bị bắt cóc. Nếu chúng cứ ở yên trong vòng, hẳn đã không có gì xấu xảy ra."
"Không gì xấu ư?" Emma nói đầy nghi ngờ. "Phải, đúng là các hồn rỗng không thể đi qua các vòng. Nhưng xác sống có thể, và cũng chính theo cách đó đám trẻ bị lừa rời khỏi vòng. Chẳng lẽ chúng ta cứ ngồi im đợi chúng tìm tới tận cửa nhà mình sao? Sẽ thế nào nếu thay vì những lốt ngụy trang khôn ngoan, lần này chúng mang súng tới?"
"Đó là điều tớ sẽ làm", Enoch nói. "Đợi cho tới khi tất cả đã ngủ say, tớ sẽ chui xuống ống khói như ông già Noel và ĐOÀNG!" Cậu ta làm bộ bắn một khẩu súng lục tưởng tượng vào cái gối của Emma. "Óc bắn đầy tường."
"Cảm ơn cậu vì mấy câu vừa rồi", Millard thở dài nói.
"Chúng ta cần tấn công chúng trước khi chúng biết là chúng ta biết chúng ở đó", Emma nói, "trong khi chúng ta vẫn còn yếu tố bất ngờ."
"Nhưng chúng ta không biết chúng ở đâu!" Millard nói. "Chúng ta sẽ tìm ra."
"Và cậu định sẽ làm việc đó như thế nào? Lang thang khắp nơi cho tới khi cậu thấy một hồn rỗng à? Khi đó thì sao? 'Thứ lỗi cho tôi, chúng tôi đang tự hỏi ngài dự định ăn thịt chúng tôi thế nào' chắc?"
"Chúng ta có Jacob", Bronwyn nói. "Cậu ấy có thể nhìn thấy chúng."
Tôi cảm thấy họng mình thắt lại, ý thức được rằng nếu đội săn lùng này hình thành, về mặt nào đó tôi sẽ là người chịu trách nhiệm an nguy của mọi người."Tớ mới chỉ nhìn thấy một con thôi", tôi cảnh báo họ. "Vì thế tớ không thể gọi bản thân là một chuyên gia thực sự được."
"Và nếu cậu ấy không tình cờ thấy được con nào thì sao?" Millard nói. "Điều đó có thể nghĩa là chẳng có con quái vật nào hoặc chúng đang lẩn trốn. Cậu vẫn sẽ chẳng có manh mối nào, cũng như chắc chắn lúc này đang không có."
Khắp xung quanh là những cặp lông mày cau lại. Millard có lý.
"À, có vẻ là lý trí lại thắng cuộc rồi", cậu ta nói. "Tớ đi xuống lấy ít cháo để ăn tối đây, có ai trong mấy nhân vật muốn nổi loạn các cậu thích đi cùng không?"
Lò xo giường kêu cót két khi cậu ta đứng dậy đi ra cửa. Nhưng cậu ta chưa kịp ra khỏi phòng, Enoch đã đứng bật dậy và reo lên, "Tớ nghĩ ra rồi!"
Millard dừng lại. "Nghĩ ra cái gì?"
Enoch quay sang tôi. "Người đàn ông có thể đã bị một hồn rỗng ăn thịt mà cũng có thể là không đó - cậu có biết người ta giữ xác ông ta ở đâu không?"
"Ở chỗ hàng cá."
Cậu ta xoa xoa hai bàn tay vào nhau. "Vậy thì tớ biết chúng ta có thể xác minh bằng cách nào rồi."
"Bằng cách nào đây?" Millard hỏi. "Chúng ta sẽ hỏi ông ta."
Một đội thám thính được thành lập. Đi cùng tôi sẽ có Emma, cô thẳng thừng từ chối để tôi đi một mình, Bronwyn, người rất không thích chọc giận bà Peregrine nhưng khăng khăng quả quyết chúng tôi cần sự bảo vệ của cô, và Enoch, người nghĩ ra kế hoạch chúng tôi định thực hiện. Millard, thì dù khả năng tàng hình của cậu ta có thể rất hữu ích nhưng cậu ta không muốn dính dáng vào chuyện này, và chúng tôi đã phải mua chuộc để cậu ta khỏi ton hót về chúng tôi.
"Nếu tất cả chúng ta đi", Emma lý luận, "Chim sẽ không thể trục xuất Jacob.
Cô sẽ phải trục xuất cả bốn chúng ta."
"Nhưng tớ không muốn bị trục xuất!" Bronwyn nói.
"Cô sẽ không bao giờ làm thế, Wyn. Đó chính là điểm quan trọng. Và nếu chúng ta có thể quay về trước giờ tắt đèn, có khi cô còn chẳng biết chúng ta đã đi."
Tôi lấy làm ngờ về chuyện đó, nhưng tất cả chúng tôi đều đồng ý là đáng thử một phen.
Chuyến đi diễn ra như một cuộc vượt ngục. Sau bữa tối, khi trại trẻ ở vào thời điểm hỗn độn nhất và bà Peregrine bị phân tâm nhất, Emma giả bộ tới phòng khách, còn tôi tới phòng học. Chúng tôi gặp nhau vài phút sau đó ở cuối hành lang trên lầu, tại đó một cái nắp hình chữ nhật trên trần được kéo xuống để lộ một chiếc thang. Emma leo lên, tôi theo sau, đóng kín nắp trở lại sau lưng, thế là hai chúng tôi ở trên một khoang áp mái chật chội, tối tăm. Ở cuối khoang áp mái ấy có một ống thông hơi có thể dễ dàng vặn ốc tháo ra, dẫn tới một phần mái phẳng.
Chúng tôi bước ra ngoài trời đêm và gặp những người khác đã đợi sẵn. Bronwyn dành cho mỗi chúng tôi một cái ôm tưởng muốn sụn lưng rồi phân phát những chiếc áo mưa màu đen cô đã xoáy được, tôi đã đề nghị cả bọn mặc vào để ít nhiều chống đỡ với cơn bão đang hoành hành phía bên ngoài vòng. Tôi đang định hỏi chúng tôi định làm thế nào để xuống đất thì thấy Olive lơ lửng xuất hiện trong tầm nhìn, bay qua rìa mái nhà."Có ai thích chơi nhảy dù không?" cô hỏi, miệng cười hết cỡ. Cô đang chân trần và mang một sợi dây buộc lại quanh eo. Tò mò muốn biết cô được buộc vào cái gì, tôi ngó qua rìa mái xuống thì thấy Fiona, cầm dây trên tay, ló đầu qua một khung cửa sổ và vẫy tay chào tôi. Có vẻ như chúng tôi còn có tòng phạm.
"Cậu đầu tiên", Enoch nói.
"Tớ?" tôi hỏi lại, ngần ngại lùi lại khỏi rìa mái nhà.
"Ôm lấy Olive và nhảy xuống", Emma nói.
"Tớ không nhớ kế hoạch này có bao gồm chuyện tớ phải đập vỡ xương chậu mình." truyenhdt.com
"Cậu sẽ không sao đâu, đồ ngốc, nếu cậu ôm chặt lấy Olive. Sẽ rất nhộn. Chúng tớ đã làm thế vô số lần rồi." Cô ngẫm nghĩ giây lát. "Thôi được, một lần."
Có vẻ như không còn lựa chọn nào khác, tôi bèn trấn tĩnh lại bước tới bên rìa mái nhà. "Đừng sợ!" Olive nói.
"Cậu thì dễ rồi", tôi đáp. "Cậu làm sao rơi được!"
Cô chìa hai cánh tay ra và ôm vòng quanh người tôi, tôi cũng ôm vòng ra sau lưng cô, và cô thì thầm, "Rồi, đi nào." Tôi nhắm mắt lại rồi bước chân ra ngoài khoảng không. Thay vì cú rơi tôi đã sợ, chúng tôi từ từ hạ xuống mặt đất như một quả khí cầu bị xì dần helium.
"Thật nhộn", Olive nói. "Bây giờ cậu buông tay ra đi!"
Tôi làm theo, và cô lại bay vọt lên mái, vừa bay vừa nói "Viiiu!" suốt dọc đường. Những đứa trẻ khác suỵt bảo cô im lặng, rồi lần lượt từng người một, họ ôm lấy Olive và hạ xuống bên cạnh tôi. Khi đã tập hợp đầy đủ, chúng tôi bắt đầu âm thầm đi về phía khu rừng dưới mặt trăng đang lên, còn Fiona và Olive vẫy tay chào đằng sau chúng tôi. Có thể chỉ là tôi tưởng tượng, nhưng dường như cả những sinh vật được tỉa thành từ các tán cây có gió thổi qua dường như cũng đang vẫy chào chúng tôi, trong số đó Adam đang nghiêm nghị gật đầu từ biệt.
Khi chúng tôi dừng lại ở rìa đầm lầy để nghỉ lấy hơi, Enoch thò tay vào trong chiếc áo khoác căng phồng của cậu ta và lấy ra những cái bọc gói trong vải thưa. "Cầm lấy những cái này", cậu ta nói, "Một mình tớ không mang hết được."
"Cái gì thế này?" Bronwyn hỏi, mở lớp vải ra để lộ một tảng thịt màu nâu sẫm với những cái ống nhỏ thò từ trong ra. "Eo ôi, tanh quá", cô kêu lên, đưa nó ra xa khỏi mình.
"Bình tĩnh nào, chỉ là một quả tim cừu thôi", Enoch nói, dúi thứ gì đó ghê ghê có cùng kích cỡ vào tay tôi. Thứ này sặc mùi formal, và cho dù đã bọc trong vải, nó vẫn có vẻ nhớp nhớp thật khó chịu.
"Tớ sẽ ói mất nếu phải mang cái này", Bronwyn nói.
"Tớ sẽ rất thích được thấy cảnh đó", Enoch cằn nhằn, có vẻ mếch lòng. "Nhét nó vào trong áo mưa của cậu và cố mà quen với nó đi."
Chúng tôi lần theo dải đất cứng ẩn kín để vượt qua đầm lầy. Đến giờ tôi đã đi qua nơi này nhiều lần tới mức gần như quên mất nó có thể nguy hiểm tới mức nào và đã nuốt chửng bao nhiêu sinh mạng qua các thế kỷ. Bước chân lên gò mộ đá, tôi bảo tất cả mọi người cài kín khuy áo khoác của mình lại."Nếu chúng ta thấy ai đó thì sao?" Enoch hỏi.
"Cứ tỏ ra bình thường", tôi nói. "Tớ sẽ nói với họ các cậu là bạn tớ từ Mỹ tới."
"Nếu chúng ta thấy một xác sống thì sao", Bronwyn hỏi. "Chạy."
"Nếu Jacob nhìn thấy một hồn rỗng thì sao?"
"Trong trường hợp đó", Emma nói, "hãy chạy như quỷ sứ đang đuổi theo cậu."
Lần lượt từng người một, chúng tôi chui vào trong mộ đá, biến mất khỏi buổi tối mùa hè bình lặng đó. Tất cả đều yên lặng cho tới khi chúng tôi tới cuối căn phòng trong cùng, rồi sau đó áp suất không khí tụt xuống, nhiệt độ giảm và bão tố gầm rít như một thực thể đang rống lên hết cỡ. Chúng tôi quay về phía âm thanh, hồi hộp, và trong một khoảnh khắc chỉ đứng đó lắng nghe trong khi nó gào rống ở phía miệng đường hầm. Nghe giống như một con thú bị nhốt vừa được cho thấy bữa tối của nó. Chẳng thể làm gì ngoài tự mình dấn thân bước vào nó.
Chúng tôi quỳ gối xuống, bò vào nơi trông giống như một cái hố đen, các vì sao đã biến mất sau những đám mây tích mưa sừng sững như những ngọn núi, làn mưa rát rạt và cơn gió lạnh cóng đâm xuyên qua áo khoác chúng tôi, những tia chớp làm chúng tôi sáng lóa lên rồi khiến bóng đêm tiếp sau chúng dường như càng tối tăm hơn. Emma cố thắp một ngọn lửa, nhưng trông cô giống như một cái bật lửa hỏng, tia lửa nào lóe lên khi cô phẩy cổ tay cũng tắt phụt trước khi kịp bùng cháy, vì thế chúng tôi đành kéo áo khoác thu sát vào người, cúi gập xuống chạy dưới cơn mưa trút xối xả vượt qua đầm lầy đang dềnh rộng lên bíu chặt lấy chân chúng tôi, định hướng nhờ vào trí nhớ cũng nhiều như vào đôi mắt.
Trong thị trấn, mưa trút xuống đập rầm rầm như đánh trống vào mọi cánh cửa ra vào và cửa sổ, nhưng tất cả mọi người đều ở tịt trong nhà cửa đóng then cài, chúng tôi chạy qua các đường phố ngập nước mà chẳng ai phát hiện ra, ngang qua một con cừu đơn độc bị mưa làm tối mắt đang lạc bầy kêu rống lên, qua một cái nhà vệ sinh đang tuôn những thứ nó chứa ra ngoài đường, để tới cửa hàng cá. Cửa ra vào bị khóa, nhưng bằng hai cú đá huỳnh huỵch Bronwyn đã hất nó mở tung vào trong. Lau khô hai bàn tay ở bên trong áo khoác, Emma cuối cùng cũng có thể thắp lửa. Trong khi những con cá tầm nhìn trừng trừng từ trong các bể thủy tinh, tôi dẫn cả toán vào trong cửa hàng, đi vòng qua cái quầy Dylan đã đứng cả ngày vừa lầm bầm rủa sả vừa chặt cá thành khúc, qua một cánh cửa gỉ lỗ chỗ. Ở bên kia là một căn phòng bảo quản lạnh nhỏ, chỉ là một chái nhà sàn đất lợp tôn, tường làm bằng những tấm ván gỗ được cưa cắt thô kệch, mưa hắt vào qua những nơi các tấm ván đã co lại tách rời nhau như những chiếc răng xấu xí. Chen chúc trong phòng là một tá những chiếc bồn hình chữ nhật kê trên các bệ đỡ bốn chân, bên trong đựng đầy đá.
"Ông ta đang ở trong cái nào?" Enoch hỏi. "Tớ không biết", tôi nói.
Emma đưa ngọn lửa của cô chiếu sáng xung quanh trong khi chúng tôi đi giữa những cái bồn, cố đoán xem cái nào có thể chứa bên trong thứ gì khác ngoài cá - nhưng tất cả chúng trông đều giống nhau, như những chiếc quan tài không nắp đầy đá. Chúng tôi có thể sẽ phải tìm từng bồn một cho tới khi thấy ông ta."Miễn cho tớ nhé", Bronwyn nói, "tớ không muốn trông thấy ông ta. Tớ không thích những thứ chết chóc."
"Cả tớ cũng thế, nhưng chúng ta phải làm", Emma nói. "Chúng ta cùng hội cùng thuyền mà."
Mỗi chúng tôi chọn một cái bồn rồi vục tay vào trong như một con chó đang bới một luống hoa quý giá, hai lòng bàn tay khum lại của chúng tôi bốc từng vốc đá ném xuống sàn. Tôi đã vét vơi được nửa một cái bồn và đang mất dần hết cảm giác từ các ngón tay thì nghe thấy Bronwyn kêu thét lên. Tôi quay sang và thấy cô loạng choạng lùi ra khỏi một cái bồn, hai bàn tay đưa lên bịt miệng.
Chúng tôi xúm quanh để xem cô đã bới ra cái gì. Thò lên khỏi đống đá là một bàn tay cứng đờ cong queo đầy lông. "Dám cược là cậu đã tìm thấy người chúng ta muốn tìm", Enoch nói, và qua kẽ các ngón tay đưa lên che mắt, chúng tôi quan sát trong khi cậu ta gạt bỏ thêm nước đá, từ từ làm lộ ra một cánh tay, rồi thân trên, và cuối cùng là toàn bộ thân thể te tua của ông Martin.
Đó là một cảnh tượng ghê rợn. Chân tay ông ta bị bẻ vặn vẹo theo những góc độ không thể tưởng tượng nổi. Bụng và ngực ông ta đã bị dùng kéo mở phanh và moi hết nội tạng ra, băng đá được nhồi đầy vào thế chỗ của chúng. Khi khuôn mặt ông ta lộ ra, tất cả chúng tôi nhất loạt hít mạnh vào. Nửa khuôn mặt là một mớ giập nát đỏ bầm rách ra thành từng dải như một tấm mặt nạ bị xé. Nửa kia chỉ còn đủ lành lặn để nhận ra ông Martin qua: một mảng hàm lấm tấm râu, một phần má và lông mày như bị cưa rời ra, và một con mắt màu xanh lục,
bị phủ một lớp băng mỏng và mở trừng trừng trống rỗng. Trên người ông ta chỉ mặc có qυầи ɭóŧ và những mảnh rách tướp của cái áo choàng ngủ bằng vải bông. Không thể có chuyện ông Martin mặc như thế tự mình đi bộ ra chỗ các vách đá giữa đêm khuya. Ai đó - hoặc thứ gì đó - đã lôi ông ta ra đấy.
"Ông ta nát quá rồi", Enoch vừa nói vừa ngắm nghía ông Martin như một bác sĩ giải phẫu đánh giá một bệnh nhân vô phương cứu chữa. "Tớ phải nói trước với các cậu là cách này có thể sẽ không ăn thua."
"Chúng ta cứ phải thử đã", Bronwyn nói, mạnh dạn bước tới chỗ cái bốn cùng Emma và tôi. "Chúng ta đã đi đến tận đây, vì thế ít nhất cũng phải thử."
Enoch mở áo mưa của cậu ta và lấy từ túi áo trong ra một quả tim được gói ghém. Trông nó giống như một cái găng của cầu thủ bắt bóng chày tự gập lại. "Nếu ông ta thức dậy", Enoch nói, "ông ta sẽ không vui vẻ lắm đâu. Vậy hãy lùi lại và đừng có nói là tớ đã không báo trước với các cậu."
Tất cả chúng tôi đều lùi lại một bước thật dài ngoại trừ Enoch, cậu ta cúi gập người vào trong bồn, vục tay vào trong đám đá nhét đầy trong l*иg ngực ông Martin, đảo qua đảo lại như thể đang khoắng tìm một lon xô đa trong thùng lạnh. Sau một lát, cậu ta có vẻ cầm được thứ gì đó, và dùng bàn tay còn lại giơ quả tim cừu lên quá đầu.
Một cơn rùng mình chạy dọc cơ thể Enoch và quả tim cừu bắt đầu đập, phun ra một luồng những hạt dung dịch ngâm pha lẫn máu nhỏ mịn như sương. Enoch thở từng nhịp nhanh, nhẹ. Cậu ta dường như đang truyền thứ gì đó. Tôi quan sát thi thể ông Martin xem có dấu hiệu cử động nào không, nhưng ông ta vẫn nằm im.Dần dần, quả tim trên tay Enoch bắt đầu đập chậm lại và co quắp màu chuyển dần sang xám đen, giống như thịt để quá lâu trong tủ đá. Enoch ném nó xuống đất và chìa bàn tay không của cậu ta về phía tôi. Tôi lấy ra quả tim vẫn giữ trong túi và đưa nó cho cậu ta. Cậu ta lặp lại quá trình như lúc trước, quả tim co bóp, phun phì phì một lúc rồi co quắp lại như quả trước. Sau đó, cậu ta lặp lại lần thứ ba, sử dụng quả tim đã đưa cho Emma.
Chỉ còn lại quả tim Bronwyn đang giữ - cơ hội cuối cùng của Enoch. Khuôn mặt cậu ta trở nên căng thẳng hơn hẳn khi cậu ta giơ nó bên trên cỗ quan tài thô kệch của Martin, bóp chặt quả tim như thể muốn bấm xuyên các ngón tay vào nó. Khi quả tim bắt đầu lắc lư run rẩy như một chiếc mô tơ quá tải, Enoch hét lên, "Dậy đi, người chết. Dậy đi!"
Tôi nhìn thấy một cử động thoáng qua. Có thứ gì đó đã nhúc nhích dưới lớp đá. Tôi lấy hết can đảm cúi xuống, tìm kiếm xem có dấu hiệu nào của sự sống không. Suốt một hồi lâu không có động tĩnh gì, nhưng sau đó thi thể co giật đột
ngột và dữ dội tới mức như thể đã bị sốc điện bằng điện thế cả nghìn vôn. Emma kêu thét lên, và tất cả chúng tôi cùng bật lùi lại. Khi tôi bỏ tay xuống để nhìn trở lại đầu ông Martin đã quay về phía tôi, một con mắt đυ.c lờ đảo loạn lên rồi dường như dán vào tôi.
"Ông ta nhìn thấy cậu rồi!" Enoch reo lên.
Tôi cúi người vào. Người chết bốc mùi của đất mới xới lật lên, cùng mùi nước biển và thứ gì đó còn tệ hơn. Đá rơi khỏi bàn tay ông ta trong khi nó giơ lên run rẩy trong không khí giây lát, đau đớn và xanh rớt, rồi đặt lên cánh tay tôi. Tôi cố tranh đấu với nỗi thôi thúc muốn hất nó ra.
Đôi môi ông tách ra và miệng ông ta há ra. Tôi cúi xuống lắng nghe xem ông ta nói gì, nhưng chẳng có gì để nghe cả. Tất nhiên là không thể có, tôi thầm nghĩ, vì phổi ông ấy đã vỡ nát - nhưng sau đó một âm thanh rất khẽ thoát ra, tôi liền cúi xuống gần hơn, tai tôi gần như chạm vào đôi môi đông cứng của ông ta. Thật lạ, tôi chợt nghĩ tới máng thoát nước mưa ở cạnh nhà tôi, ở đó nếu cúi đầu xuống chỗ các thanh song chắn và đợi đến khi dòng xe cộ tạm lắng, bạn có thể nghe thấy tiếng thì thầm của một dòng suối chảy ngầm dưới lòng đất, nó bị vùi dưới nền móng xây lên thị trấn nhưng vẫn tiếp tục chảy, bị cầm tù trong thế giới của bóng đêm thường trực.
Những người khác đang xúm quanh, nhưng tôi là người duy nhất có thể nghe thấy người chết nói gì. Từ đầu tiên ông ta nói là tên tôi.
"Jacob."