Chương 30: Bình phàm đích tiểu hoa
Từ nãy giờ vẫn đứng một bên nghiêm mặt không nói một lời, Tiễn Bất Thụ rốt cục cũng cười lạnh: “Tử đinh hương mà dùng làm thuốc? hắc hắc, không biết loại thuốc này được ghi trong y thư nào vậy?”
Lần đầu tiên việc dùng tử đinh hương làm thuốc được ghi lại chính là tại cuốn “Bổn thảo cương mục” từ đời nhà Minh, trước đó cũng chưa có phát hiện tác dụng của nó, cho nên Tiễn Bất Thu không biết cũng là chuyện rất bình thường.
Lúc này Đỗ Văn Hạo cũng không thèm đếm xỉa đến hắn, hướng Bàng Vũ Cầm nói: “Chúng ta đi nhanh nào!”
Tuyết Phi Nhi cũng gấp giọng nói: “Tam tỷ, người mau dẫn Đỗ lang trung đi!”
Bàng Vũ Cầm nghe nói thuốc này có thể cứu mạng di nương thì không nói nhiều, gật đầu nói “Được” rồi theo Đỗ Văn Hạo hai người lao ra khỏi phòng.
Đang lúc bọn họ lao nhanh xuống lầu, chợt nghe tiếng Bàng Huyện úy chạy ra phía lan can hướng xuống nói: “Lấy ngựa của ta mà đi!”
Dân chúng Tống triều thời này đều dùng xe trâu, sĩ đại phu cưỡi lừa hoặc đi kiệu, đại bộ phận ngựa chỉ dùng cho quân sự cùng các công vụ của triều đình, trừ quân đội, nha môn, cũng chỉ có các cự phú mới có ngựa cưỡi. Bàng Huyện úy làm quan phụ trách trị an cả một huyện, có cả một nha môn được trang bị toàn tuấn mã để tuần tra.
Hai người tới hậu viện, Bàng Huyện úy cũng chỉ có một con ngựa, Bàng Vũ Cầm nói: “Ngươi cưỡi ngựa đi trước, ta ngồi xe trâu theo sau”
“Sợ rằng không được, gia đinh nhà các người sẽ không cho ta vào, mà ta cũng không biết khuê phòng hoa viên ở nơi nào, ta,… ta sẽ không cưỡi ngựa!” (Hắn đã cưỡi ngựa bao giờ đâu)
“Vậy, vậy, làm sao bây giờ?”
“Hay là chúng ta cùng ngồi xe trâu đi!”
“Không kịp!” Bàng Vũ Cầm cắn răng, kéo Đỗ Văn Hạo một cái: “Đi thôi! Chúng ta hai người cùng cưỡi ngựa!”
“A?”
“Nhanh! Di nương nguy lắm rồi!” giọng Bàng Vũ Cầm không khỏi nghẹn ngào, hai tay cầm lấy cương ngựa giữ lấy đầu nó.
Đỗ Văn Hạo tim đập mạnh một cái, cố nhớ lại đúng những gì đã xem trong phim ảnh, một chân dẫm lên bàn đạp, hai tay nắm yên ngựa, nhảy mạnh một cái lên. Bàng Vũ Cầm cũng nhảy lên ngựa, ngồi ở phía sau, đưa dây cương cho hắn, hai chân kẹp bụng ngựa hét một tiếng: “Đi!” phóng thẳng ra khỏi khách điếm.
Người đi đường nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập, biết là ngựa của nha môn nên vội vàng tránh né sang hai bên, đưa mắt nhìn thấy trên lưng ngựa một nam một nữ không khỏi tấm tắc lấy làm kỳ lạ, mặc dù ngựa chạy nhanh, nhưng cũng có người nhanh mắt nhận ra nữ tử kia chính là thiên kim tam tiểu thư cao cao tại thượng của Huyện úy Bàng Vũ Cầm, mà ngồi phía trước chính là tân tọa đường đại phu của Ngũ Vị Đường.
Vì vậy, khi bọn hắn hai người cưỡi ngựa đi qua một lúc, tin này đã ngay lập tức mọc cánh bay đi nhanh không kém, lan truyền khắp hơn phân nửa thành.
Bàng Vũ Cầm vội vàng đưa Đỗ Văn Hạo vào cửa, xuyên qua tiền sảnh, đi vào hậu trạch, hiện ra một tiểu hoa viên hết sức tinh tế ở bên trong, cất bước theo khung cửa nhỏ hình bán nguyệt trên con đường rải đá vụn thô, hai bên trồng đầy liễu, tới một chiếc ao nhỏ xanh biếc, giờ là cuối mùa thu, lá sen sớm đã khô vàng trên mặt nước, thậm chí bên cạnh ao đã có một tầng sương mỏng khi trời vẫn còn sớm.
Một tòa tiểu lâu được che bởi những tán cây xanh, phía trước là một vườn hoa lớn, đại bộ phận hoa ở đây cũng đã tàn tại thời điểm cuối thu này, trừ một số loài như hoa trà nở vào đầu mùa đông, bắt đầu lộ ra những nhụy hoa mềm mại.
Đỗ Văn Hạo liếc mắt một cái liền nhận ra một khoảng hoa tử đinh hương, vội chạy tới ngồi xổm xuống, bất chấp việc không có dụng cụ gì, hai tay bắt đầu đào. Bàng Vũ Cầm chạy nhanh đến lấy cái cuốc nhỏ, cũng ngồi xổm xuống ngay cạnh hắn để đào.
Đỗ Văn Hạo vừa đào vừa tò mò hỏi: “Tử đinh hương vẫn mọc ở bờ ruộng, ven đường, tùy ý có thể thấy được khắp mọi nơi, ngươi như thế nào lại thích loại hoa nhỏ này, lại còn phí công nuôi trồng nó nữa vậy?”
“Ta cảm giác được nó rất đẹp, tại những nơi rất tầm thường yên lặng tỏa hương, tự do tự tại mà sống, thật tốt!”
Đỗ Văn Hạo ngẩn ngơ, nhìn khuôn mặt mềm mại của nàng, nhất thời không biết nói gì cho phải.
Bàng Vũ Cầm tuy vậy nhưng thủy chung không giương mắt lên, chỉ lo đào lấy hoa.
Rất nhanh, hai người đào được một đống lớn, Bàng Vũ Cầm tìm được một cái túi thật to gói vào dẫn Đỗ Văn Hạo rời đi, hai người lại ra thẳng đường lớn cưỡi ngựa trở về Ngũ Vị Đường bất chấp những cặp mắt hiếu kỳ của dân chúng.
Trong dược đường có mấy người bệnh đang ngồi đợi, đầy vẻ nóng ruột; nha hoàn Anh Tử thì trong lòng nóng như lửa, liên tục chạy quanh, vừa nhìn thấy Đỗ Văn Hạo, vội chạy đến vồn vã: “Ai da, tiên sinh! Người đi đâu vậy? phu nhân tìm người muốn chết, làm cho ta chạy sang khách điếm đối diện tìm người cũng không thấy. Trong buổi sáng nay cũng đã có hơn hai chục người đến xem bệnh, nghe nói ngươi không có ở đây, cũng đã bỏ đi gần hết, chỉ còn lại mấy vị này”.
Đỗ Văn Hạo vừa mừng vừa sợ: “Hôm nay như thế nào lại có nhiều người đến xem bệnh vậy?”
Tiểu nhị Ngô Thông ha hả cười nói: “Lúc ta đi tới đưa thuốc cho Lôi bộ đầu, nghe nha môn bộ khoái nói chuyện với nhau, rằng sáng sớm nay khi đi tuần phố, Lôi bộ đầu gặp ai cũng nói Ngũ Vị Đường chúng ta có vị thần y mới đến, không chỉ có thủ đoạn cao minh, hơn nữa lại còn trượng nghĩa, có bệnh nên đến chỗ ta để xem”
“Lôi bộ đầu đúng là nhiệt tâm! Chưởng quỹ đâu rồi?” Đỗ Văn Hạo vừa nói vừa tiến vào bên trong.
“Ở phía sau sân này! Mau nhanh nhanh xem bệnh cho mấy người kia, họ chờ ngươi cả nửa ngày rồi đó!”
Một lão già tóc bạc trắng vịn vai một trung niên, tay kia chống gậy ngồi ở chiếc ghế dài bên cửa, lưng cúi gập đến thắt lưng, không ngừng ho sù sụ, yết hầu không rừng rung lên sau mỗi cơn ho, như kéo bễ lò rèn, lời nói đứt quãng: “Đỗ đại phu, khụ khụ khụ, Lôi bộ đầu nói người y thuật như thần, hắn nói bệnh gì người cũng chữa được, cho nên bọn lão hủ mới tìm đến người xem bệnh, ngài xem cho chúng ta một cái,… bệnh này của ta, cả ngày ho không ngừng, khụ, khụ, thực muốn lấy đi cái mạng già này của ta mà, khụ khụ khụ.”
Đỗ Văn Hạo vội khom người nói: “Lão nhân gia, thực xin lỗi người, nếu như ngài nguyện ý để cho ta xem bệnh, sợ rằng còn phải kiên nhẫn chờ thêm một chút, bởi vì có một bệnh nhân đang rất nguy kịch chờ ta điều chế dược liệu cứu mạng!”
“Ồ? Có phải là nhị nãi nãi của Huyện úy đại nhân không? Hí hí hí (đây là tiếng hít thở của lão, không phải tiếng cười, bị suyễn nặng mà), nghe nói… vậy ngài nên khẩn trương đi trước cứu người, sau khi trở lại khụ khụ xem cho lão, lão hủ chờ, dù sao bệnh của lão cũng đã kéo dài hơn hai mươi năm, nhất thời chưa chết ngay đâu! Khụ khụ khụ”
Đỗ Văn Hạo vội mang theo hơn phân nửa chỗ tử đinh hương tiến vào hậu viện, Lâm Thanh Đại đang ngồi trên một chiếc ghế trúc, tay đang thêu một món đồ gì đó, thấy Đỗ Văn Hạo đi vào, vội buông tay đứng lên ánh mắt hiện lên một tia vui sướиɠ: “Về rồi a!”
“Ân, trước hết ta phải chế thuốc cho nhị nãi nãi để mang đi gấp, khi trở về ta sẽ xem bệnh cho những người ở tiền đường.”
“Tốt, bệnh có nặng có nhẹ, có hoãn có cấp, trước hết hãy cứu người cấp đã!”
Đỗ Văn Hạo rải tử đinh hương lên mặt đất, trước tiên dùng dao chặt vụn, rửa sạch, sau đó lấy một cái chén đồng, cho tử đinh hương vào tán nhỏ, dùng vải xô gạn lấy nước, đem thuốc của nhị nãi nãi lúc trước tới, đổ nước tử đinh hương vào, trộn đều lên, rồi mang theo cả chỗ bã tử đinh hương vừa rồi và chén nước thuốc vừa trộn, cùng Bàng Vũ Cầm hai người vội trở lại Hằng Tường khách điếm.
Đi vào cửa, mọi người trong phòng thấy hắn mang chén thuốc tới, biết là đã thuốc mới đã chế xong, trong mắt không khỏi lộ ra tia hy vọng.
Tiễn Bất Thu vẫn ngồi ở một chiếc ghế bên góc phòng, khóe miệng lộ nụ cười nhạt. Hắn được mọi người tôn xưng là thần y, cũng tự tin vào y thuật của mình, trong vòng bán kính bốn dặm của thành này, hắn là số một cùng lắm là số hai thôi, vậy mà ngay cả hắn cũng không hề có biện pháp gì chữa trị bệnh này, một người trẻ tuổi như vậy làm sao có thể đây.
Một nha hoàn vội tiến tới định cầm lấy chén thuốc nhưng Bàng Vũ Cầm đã tiến lên trước: “Để ta!”
Bàng Vũ Cầm tay bưng chén thuốc đến ngồi ở bên giường, đưa chén thuốc lên miệng, dùng môi thử xem rồi mới nhẹ nhàng đưa tới miệng Ngọc nhi: “Di nương! Uống thuốc!”
Ngọc nhi hai mắt trợn lên, ngây ngốc nhìn phía trước, không hề phản ứng.
“Dùng quán hồ cho uống!” Đỗ Văn Hạo nói.
Nha hoàn vội vàng chạy đến đưa quán hồ cho nàng, khẽ cạy miệng Ngọc nhi ra, đưa một đầu quán hồ vào sâu trong miệng tới gần cổ họng, đem chén thuốc đổ vào, rồi chậm rãi để thuốc đi vào.
Sau khi uống xong một chén thuốc, Ngọc nhi vẫn nằm không nhúc nhích, mặt như trước vẫn đờ đẫn như tượng, chỉ có bộ ngực có chút phập phồng, khiến cho người khác có cảm giác tánh mạng nàng vẫn đang giãy giụa yết ớt.
Đỗ Văn Hạo đưa chỗ bã tử đinh hương cho Bàng Vũ Cầm: “Lấy đinh sang rửa sạch vết thương trên đùi nãi nãi rồi dùng cái này đắp vào”
Bàng Vũ Cầm tiếp nhận, với sự trợ giúp của bọn nha hoàn vội vàng thay thuốc cho nhị nãi nãi, Đỗ Văn Hạo đi tới phía hiên quay người tránh đi hướng khác.
Bàng Huyện úy đi tới bên cạnh Đỗ Văn Hạo, ho khan một tiếng, thấp giọng nói: “Đỗ tiên sinh…., đa tạ….!”
Đỗ Văn Hạo không quay đầu lại, thản nhiên trả lời: “Chữa bệnh cứu người là bổn phận của người làm nghề y, không cần phải nói lời cảm ơn! Bất quá, Đỗ mỗ có lời này nói ra thật không phải, bệnh tình nhị nãi nãi tối qua trở nên nguy kịch, đại nhân cũng không hề phái người đi gọi ta, chắc là tại Đỗ mỗ tối hôm qua đắc tội đại nhân, nhưng là, nhân mệnh quan thiên, đại nhân ngay cả với Đỗ mỗ có ý kiến gì đi nữa, cũng không nên lấy tánh mạng người để mà giận dỗi!”
Bàng Huyện úy sắc mặt có vẻ thẹn, thấp giọng: “Là! Tiên sinh nói chính là …”
:71: