- 🏠 Home
- Cổ Đại
- Ngược
- (ĐAM MỸ Phương Tây) Tình Yêu Vô Điều Kiện
- Chương 2
(ĐAM MỸ Phương Tây) Tình Yêu Vô Điều Kiện
Chương 2
Henry ngồi trước lò sưởi với ly rượu vang trên tay, chợt anh nghe thấy có tiếng động ở cửa sổ. Anh quay đầu, thấy Alex đang ráng lách người qua khung cửa.
-Sao em không vào bằng cửa chính? Anh thắc mắc, nhưng phát hiện ra câu trả lời khi tôi tiến tới gần anh.
Tôi đang mặc chiếc quần bó ống và áo khoác ngoài bó sát lấy người. Dáng người thon thả.
-Ôi trời hỡi. Anh bật kêu lên sửng sốt.
-Mấy thứ đồ này là của anh đấy. Tôi giải thích. “Anh mặc năm cuối ở Eaton đó.”
Tôi cười ngặt nghẽo đoạn nói tiếp.
-Anh đừng kinh ngạc như thế chứ.
-Anh mong là không ai thấy em ăn mặc kiểu này.
Anh không muốn ngồi dậy, vẫn nằm ngả người trên ghế, và bằng vào nét mặt anh tôi hiểu anh đang vô cùng chán nản.
-Anh sao vậy, chuyện gì đã xảy ra? Tôi tiến lại bên anh. “mira không đến chiều nay sao?”
-Có, cô ấy có đến.
-Chuyện gì làm anh buồn vậy?
Cô ấy khiến anh thấy mình bất lực trong việc hôn nhân. Chàng cay đắng đáp.
-Cô ấy đã nói gì?
-Cô ấy không nói nhiều, nhưng anh có cảm nhận rằng nếu đối tượng cầu thân không có nổi 50,000 bảng trong ngân hàng thì đừng mong gặp được cha của cô ấy ,tôi bặm môi để ngăn mình không bật ra điều mình thật sự muốn nói. Một lát sau anh tiếp:
-Anh hoàn toàn ý thức được mình đã bị đánh bại ngay trong lúc ấy! Làm sao tiếp tục tấn công khi chả có lấy được một cơ hội trong tay.
-Đó là điều ai cũng nói khi đất nước đang lâm chiến.tôi đáp lời anh “ai có thể ngờ rằng hòn đảo bé tí teo của chúng ta, chỉ là một chấm bé xíu trên bản đồ, lại có thể bẻ gẫy ý tưởng của Bonaparte khi ông ta đã thống trị hầu như toàn thể . Anh ấy ngưng 1 lát rồi nói.
-Em dễ thương lắm, alex, lúc nào em cũng khuyến khích làm cho anh vui. Em có tin tưởng ở kỳ tích không?
-Đương nhiên rồi. Tôi khẳng định, “đặc biệt nhất là có liên quan đến anh. Em chắc chắn, trời sẽ giúp kẻ nào biết tự giúp mình.”
-Vậy em vẫn có ý định dấn thân vào chuyện trộm đạo này chứ?
-Bộ anh nghĩ em ăn mặc kiểu này để ngồi nhìn anh âu sầu rầu rĩ thôi sao?
Tôi nhìn ly rượu của anh và thắc mắc hỏi.
-Anh không định uống rượu để quên sầu phải không?
-Đó là cơ hội quý báu nhỏ nhoi đấy. Đây là chai cuối cùng còn sót lại trong hầm rượu. Sau hôm nay thì anh chẳng còn gì để uống ngoài nước lã cả.
-Sau hôm nay mọi việc sẽ khác. Nói xong tôi băng ngang qua phòng về hướng cửa sổ.
-Mình phải bắt tay sớm. Phải tới chỗ cối xay khi trời chạng vạng đừng quá tối mới thấy đường được. Mình sẽ phải băng ngang qua khu rừng .anh dốc nốt chỗ rượu vào ly.
-Nào mình bắt đầu. Anh tỏ vẻ bất cần. “Em có cần anh phải mặc đồ gì… cho hào hoa một chút không?”
Tôi nhìn anh xét đoán. Anh có thể nghèo nhưng lúc nào cũng toát lên vẻ thanh lịch như bao anh chàng quý tộc hào hoa tôi từng thấy.
-Mặc đồ nào cũ nhất là được. Mình còn phải leo rào, và em phải leo lên vai anh chui qua mấy vòm cửa sổ nữa. Anh cứ tìm mấy thứ đồ mà anh mặc trước khi nhập ngũ ở trong mấy tủ quần áo trên lầu. Em đã dọn dẹp lại mới tuần rồi thôi. Nhớ là đeo cravat đen – như vậy mới không gây chú ý như đồ anh đang mặc.
-Anh nghĩ là em có lý. Chàng nói một cách miễn cưỡng, rồi bỏ lên lầu.
Tôi đem cái ly trống của anh để vào khay trên cái bàn nhỏ, đoạn nhìn chung quanh phòng xem có gì cần phải sắp đặt lại hay không. Tôi đã đến đây từ ban sáng và cố gắng dọn dẹp lại phòng khách cho ngăn nắp hơn. Có cả những lọ hoa trang trí trên bàn, và mặc dù nệm ghế đã sờn cũ nhưng vẫn trông tươm tất do bàn tay đảm đang giặt giũ, là ủi của tôi. Dù tôi đã cố mấy đi chăng nữa căn phòng vẫn nhuốm vẻ tồi tàn, hẳn nhiên tôi hiểu nó có ấn tượng gì trong mắt mira.
Với nàng không nơi nào trên thế giới đẹp bằng Priory. Sau các cuộc giải toả các tu viện Thiên Chúa giáo dưới triều đại Louis đệ bát, nhà vua đã ban thưởng Priory và lãnh địa chung quanh cho một trong các sủng thần có công lớn với triều đình, cũng như ban cho tước hiệu Hiệp-sỹ.
Bằng vào những kỳ tích mà Priory và lãnh địa đã sống còn qua bao biến cố thăng trầm dưới thời thống trị độc đoán của Cromwell. Và trong thời kỳ khôi phục vương quyền, Charles đệ nhị phong tước hiệu Nam tước cho dòng họ Corbury.
-Dẫu nghèo đến chừng nào – tôi tự nhủ – mình cũng lấy làm mừng là anh ấy không thể bán đi Priory và bỏ phế đất đai.
Tôi tin một cách tha thiết rằng rồi sẽ có kỳ tích xuất hiện, giúp cho Periquine qua cơn bĩ cực, sống lại cuộc sống mà anh hằng mong muốn. Tôi khẩn thiết cầu xin ngày ấy sẽ không còn xa nữa.
Không một ai có thể hiểu anh hơn tôi, anh đau khổ thất chí đấy, nhưng rồi anh sẽ vực lại mau chóng thôi. Với lòng quả quyết bền bỉ thâm sâu mà anh ấy chưa tự nhận ra, sẽ lần hồi đưa anh đến chân trời vẻ vang hơn.
-Anh phải thành công, nhất định anh phải làm được.tôi nhủ thầm, nhưng bỗng chợt nhận ra rằng thành công cho henry cũng có nghĩa là đám cưới với mira.
Thật khó hình dung cho tôi khi henry sẽ lấy ai đó làm vợ, có lẽ sẽ dễ hơn nếu người ấy là một trong các thiếu nữ mà họ từng quen biết thuở thiếu thời. Mira Baldwyn từng được nuông chiều, lúc nào cô cũng tỏ vẻ kênh kiệu ngạo mạn với các cô gái đồng trang lứa. Cô gái xinh đẹp này luôn tự cho mình cái quyền được thanh niên quỳ luỵ yêu chiều. Trong lúc henry xa nhà, mira đã ra sức chinh phục các chàng trai láng giềng, rồi cuộc chinh phục đó đã tiến xa hơn đến tận London.
Thảo nào chả trách henry không cầm lòng được trước vẻ quyến rũ của mira. Tôi nghĩ đến vẻ đẹp cổ điển của mira , tóc bạck kim, làn da trơn tru không tì vết, làm thế nào mà vẻ đẹp ấy lại có thể thoát nổi ánh mắt đa tình của henry từ trận chiến trở về cơ chứ.
-Dù sao tất cả mình muốn là hạnh phúc của anh ấy thôi, dù rằng tôi linh cảm anh sẽ không có được hạnh phúc cùng mira Baldwyn.
Tôi vẫn đứng trong phòng khách, đắm mình trong miên man suy tư, nỗi ưu tư hằn rõ trong đôi mắt màu xanh lục, thì anh đã xuống tới.
Anh đã thay đổi y phục theo ý Fenella với quần bó ống đen, chiếc áo khoác cũ mèm, cùng với cravat đen. Mặc dù y phục tồi tàn, nhưng anh vẫn tạo cho mình vẻ đĩnh đạc được thể hiện trong ánh mắt cao ngạo cố hữu.
Tôi khẽ cười.
-Có phải đây là vị đảng trưởng tối cao của đảng cướp không? Tôi hỏi chế giễu.
-Nếu mà em nói tiếp, anh sẽ cho em nếm mùi mà anh từng làm cho mấy tên bạn học gà mờ trong trường Eaton, mấy thằng giống y như em trong bộ quần áo ấy đấy.
-Em chắc rằng anh là mấy kẻ hay bắt nạt người ta. Tôi phản đối. “Nếu anh ăn hϊếp em đừng mong mình sẽ tới kịp Old Mill trước khi trời trở tối, để đám chó còn phân biệt ai là bạn ai là thù.”
-Trời ơi, đám chó. Suýt nữa anh quên béng tụi nó.
-Nhưng em thì không, em đã đem sẵn đồ ăn cho chó rồi để ờ ngoài cửa kia kìa.
-Mình có phải ra vào nhà theo kiểu thần bí như vậy không? Anh thắc mắc.
-Nếu anh không muốn thì cứ tự nhiên, nhưng em chắc chắn không muốn bà Buckle và ông lão Barn thấy em trong bộ dạng như vậy. Coi chừng họ đến đấy.
-Thôi đừng để họ bắt gặp. Anh thoái thác.
Nói xong, anh theo tôi leo qua thành cửa sổ, phóng ra hàng hiên bên ngoài. Vì nhỏ nhắn nên hơi khó cho tôi leo ra cách đó, trong khi henry chỉ cần nhón mình là đã nhanh chóng thoát ra ngoài. Ra đến bên ngoài tôi đến bên trụ cờ bằng đá phủ đầy rêu lấy lên 1 cái rổ.
-Anh mong em đem khá khá đồ ăn.
-Đồ ăn thừa ở nhà em lúc nào cũng nhiều. Bà bếp nhà em xa hoa lắm.
-Còn xa hoa hơn bà Buckle nữa. Chàng cay đắng. Bà ấy vừa cho anh biết là chả còn gì để nấu cả.
-Tội nghiệp anh quá, anh có đói không?
-Bây giờ thì không. Nhưng anh chắc phải đặt bẫy thỏ, và đặt lưới bẫy bồ câu cuối tuần tới.
-Làm gì còn đạn chứ!
Còn một ít. Trong nhà chả thứ gì có nhiều cả.
Vẻ chua chát trong giọng nói anh cho tôi biết là anh đã xem xét hết mọi chuyện trong nhà, có lẽ vào buổi chiều sau khi mira rời khỏi. Chắc cô ta không lưu lại lâu. Henry đã thấy nhẹ nhõm khi cô ta chịu về nhà dùng bữa trưa.
-Em chưa cho ba mẹ em biết là anh đã về, không phải là vì họ sẽ quan tâm đặc biệt đến anh, nhưng càng ít người biết đến việc anh về thì càng đỡ đến tai Sir Virgil nhanh hơn.
-Em thật là chu đáo. Anh ra vẻ hài lòng. “Bây giờ lẽ sống của anh chính là những lần viếng thăm của mira, nếu cô ấy không đến anh có cảm tưởng như mình bị ai bắn vậy.
Tôi không tiếp lời anh, tôi chỉ hy vọng mira chịu đến Priory suốt buổi chiều. Nhưng cô biết quá rõ không đời nào mira chịu phí công như thế trừ phi cô ta muốn. Chiều theo ý muốn henry đồng nghĩa là sẽ đi ngược lại với lợi ích của cô ta, không đời nào cô ta chịu vậy đâu, không đời nào.
-Sao mình lại cay cú vậy chứ, không nên nghĩ xấu về mira. Cay cú với mira sẽ chứng tỏ mình có lòng ghanh tị. Không nên ghanh tị vì cô ấy quá đẹp. Mặc dù nghĩ vậy nhưng tôi hiểu không phải sắc đẹp của mira khiến cô đau khổ mà đó chính là lòng ưu ái của anh đối với mira.
Từ thuở xa xưa, mỗi lần về thăm nhà anh dường như thuộc về tôi, rất ít khi có chuyện gì khiến anh sao lãng với tôi. Tôi đã từng với anh rong ruổi săn bắn khi thu sang, hay ngồi bên anh câu cá mỗi khi hè đến. Rồi những ngày lênh đênh chèo thuyền trên hồ, hay cưỡi ngựa đến mệt nhoài qua những khu rừng bạt ngàn. Chỉ có đồng quê thôn dã làm họ hứng thú, chưa có lúc nào họ cảm thấy chán chường việc gì. Mỗi ngày là một hứng khởi mới. Nhưng giờ thì anh luôn buồn bã, cô hiểu chung quy chỉ là vì tiền
Họ sóng bước bên nhau băng qua đồng cỏ. Mặt trời đang lặn xuống sau hàng cây, những tia nắng cuối ngày màu đồng đỏ vẫn ráng vươn lên le lói. Bầu trời đang dần trở nên xanh thẫm, vài vì sao sớm đã điểm lung linh.
-Thật không gì đáng yêu hơn Priory vào tháng năm.
Không gian thoảng hương lilac, nồng đậm hơn là syringa, và khắp nơi cô thấy là những mảng mầu quyện lấy nhau hài hoà của cây lá, tất cả đáng yêu biết bao.
Trên con đường đến cánh rừng Robin song song với xa lộ, tôi thầm nghĩ sự tĩnh mịch và vẻ đẹp của màn đêm phần nào đã xoa dịu người bạn đồng hành của cô. Khi họ đi qua 1 cây cầu hẹp bắc ngang con suối dẫn đến 1 hồ nước, cô nói:
-Ở dưới đây có cá hồi lớn lắm.
-Vậy sao?
Tôi nghĩ chắc mắt anh đã sáng lên khi biết được chuyện này.
-Khá lâu rồi anh chưa đυ.ng đến cần câu, bị lụt nghề mất rồi.
-Từ từ anh sẽ quen lại thôi.
Anh nhìn tôi mỉm cười.
-Bỏ qua cho anh nếu anh xấu tính. Anh nói 1 cách ngờ vực. “Anh nhận ra được là em cố làm cho anh phấn chấn, nhưng cho dù em làm không nổi anh cũng không nên đem những chuyện u ẩn trút lên người em.
-Em đâu thấy có vấn đề gì, chúng mình thường chia sẻ khó khăn trước kia mà.
Tôi ngước nhìn anh, hy vọng anh đồng tình với tôi, nhưng anh đang ngắm bầy quạ đen và lơ đãng trả lời.
-Tất nhiên rồi.
Họ đã đến cánh rừng Robin, giờ đây cây cối mọc um tùm cần phải tỉa bớt lại. Đằng trước là 1 con đường mòn chạy ngoằn nghoèo giữa những hàng cây, họ tiến vào theo lối đó. Mặt trời đã khuất hẳn cuối chân trời, và trời mỗi lúc một tối hơn. Vài tia nắng yếu ớt sót lại không xuyên qua nổi cành lá chằng chịt phía trên. Họ yên lặng đi, chợt có tiếng động như ai đó đang tiến về phía họ. Fenell đứng sững lại, anh với phản xạ nhanh nhẹn từng được huấn luyện trong quân ngũ, vội kéo tay tôi ẩn mau sau một bụi cây rậm.
-Không biết là ai đây. Chàng thì thào.
-Em cũng không biết. Chưa từng thấy ai vào rừng vào lúc đêm tối như thế này.
Tiếng động hình như phát ra từ người nào đó đang di chuyển chậm chạp nặng nề, và mỗi lúc một gần hơn. Rồi họ lại nghe 1 giọng lẩm bẩm.
Anh nghe những từ ngữ ngoại quốc, và người nói đang ở cùng tầm cao như họ, hình như ông ta đang cầu kinh thì phải.
Cố dằn không ngóc đầu dậy xem là ai, anh và tôi vẫn đang khom người sau bụi rậm cho đến khi tiếng chân và giọng nói của người đàn ông thoảng xa dần.
-Không sao rồi, đó chỉ là ông mục sư già thôi.
-Mục sư? Anh thắc mắc.
-Anh chắc còn nhớ, ông ấy là mục sư của Little Combe nhiều năm rồi. Rồi ông ấy bị chứng lãng trí đến nỗi ngài tổng giám mục phải cho ông ta trông coi toà giáo đường trong rừng.
-Có phải em muốn nói đến khu nhà nguyện của các tu sỹ không?
-Đúng vậy, nơi đó từng là nhà nguyện lúc mình còn nhỏ. Ở đó toàn là sóc, chim chóc, và cả thỏ nữa. Em hay đến đó ngày Chúa nhật khi vị mục sư đó làm lễ.
-Có ai khác dự lễ không?
-Có hai bà cụ trong làng rất mến ông ấy, một trong hai người đó hay đến quét dọn căn nhà nhỏ của ông ấy. Căn nhà ấy chỉ nhỉnh hơi cái chòi 1 chút, nhưng ông ấy sống vui vẻ lắm. Trách nhiệm giáo sứ càng ngày càng nặng nề hơn cho ông ấy. Ông thường xuyên quên đến các đám tang, và nhiều lần người ta phải đích thân đưa ông đến làm phép cưới khi cô dâu không biết đã đợi mòn mỏi từ thuở nào.
Anh bật cười.
-Chắc là gây ra nhiều vấn đề lắm.
-Phải, nhất là mỗi khi vị mục sư này bị lạc trong rừng. Anh còn nhớ là ông ấy yêu thú vật lắm không. Ông tập cho chúng ăn đồ trên tay của ông nữa.
-Anh sẽ tìm dịp đi thăm ông ấy. Đúng ra hồi nãy anh nên nói chuyện với ông.
-Em cũng nghĩ vậy, nhưng tốt hơn đừng để ai thấy mình. Isaac Goldstein cáo già lắm, hắn sẽ không dám làm lớn chuyện nếu bị trộm tiền, nhưng đâu ai biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mọi việc sẽ an toàn nếu không ai ở các vùng lân cận có dịp thấy mình.
-Đúng vậy.
Họ trở về lối cũ và quả là khó tìm lại đường đi. Tôi đi trước và rồi họ đã ra khỏi rừng cây, trước mắt là hàng rào cao nghệu bện bằng những cành cây dầy đặc.
-Lúc trước hàng rào đó đâu có ở đó.
-Isaac dựng lên đó. Hắn nói là để giữ chó nhưng đúng ra là để ngăn kẻ lạ xâm nhập.
Mill House trông thật tàn tạ. Một khe nước nhỏ chạy bên hông nhà, phía bên kia tiết giáp với xa lộ bằng 1 đoạn đường ngắn đã lâu không được tu bổ. Vài cửa sổ đã bị bịt kín mít, những cửa sổ còn lại đều tối tăm không thấy ánh sáng đèn chiếu ra.
Trước 1 quang cảnh như vậy tôi có ý nghĩ là anh cũng đang có vẻ cảnh giác.
-Không có gì cả đâu. Tôi trấn an anh. “Chính mắt em thấy hắn ta rời khỏi nhà, và nếu hắn có đi vơ vét các nạn nhân của hắn ở chỗ khác, hắn sẽ không về nhà vào lúc tối trời đâu.”
Anh không đáp lại kiểu lý luận của tôi, anh lặng lẽ theo tôi đến bờ rào. Anh thấy có chỗ có nhiều khúc cây đặt chồng lên nhau, anh đoán có lẽ là chỗ tôi trèo qua rào khi tôi đến đây 1 mình.
Tôi đưa cho anh cái rổ, y như anh nghĩ tôi leo lên đám cây và leo qua hàng rào. Ngay sau đó, có tiếng gầm gừ rồi sủa vang dữ tợn phía bên dưới đến nỗi anh theo phản xạ tự động giơ tay ngăn tôi lại. Tôi khẽ huýt gió.
-Không sao đâu tụi bay, tao đây mà.
Nghe tiếng tôi tiếng sủa ngưng bặt, thay vào đó là tiếng nhảy chồm lên mừng rỡ. Khi nhìn qua hàng rào, anh còn thấy lũ chó vẫy đuôi mừng.
Trong trời đêm, lũ chó trông thật ghê rợn. Có con lớn như chó sói, có con như bản sao của quái vật. Cả hai đều hàm lớn răng nhọn và anh tin chắc chúng là những quân canh cửa vô cùng hữu hiệu.
-Cái rổ đâu! Tôi gọi khi chân vừa chạm đất. Anh trao rổ cho tôi, trong khi lũ chó hớn hở vây quanh tôi.
Tôi đưa đồ ăn cho chó, chúng ngoạm lấy vội vã chứng tỏ đã bị bỏ đói quá lâu.
-Đến đây đi, em bảo đảm tụi nó không cắn anh đâu.
-Hy vọng là em nói đúng. Anh đáp với vẻ khô khan. “Anh không muốn trở thành thức ăn tối cho lũ chó đâu.”
-Có nhiều đồ ăn cho tụi nó lắm. Em sẽ bảo vệ anh mà.
Anh thòng chân qua rào, chờ đợi. Một chú chó tiến lại gần anh và gừ lên khe khẽ.
-Đây là phe ta mà. Tôi xoa đầu trấn an chú chó. Tôi cho nó thêm 1 miếng đồ ăn lớn, và chia đều luôn cho con kia.
-Xong rồi, an tâm đi.
Anh ngần ngừ hạ người xuống.
-Nhớ đứng gần em nhé. Tôi ra lệnh. Bây giờ thì xem tụi nó chịu quen với anh chưa hay là sẽ phóng tới.
-Cái kiểu bảo đảm của em thấy… nghi ngờ quá.
Anh đứng gần cô trong lúc tôi lấy ra hai khúc xuơng to quăng cho lũ chó.
-Mấy cái xương đó có việc cho chúng nó bận rộn. Tôi nhoẻn miệng cười, rồi ném luôn cái rổ qua hàng rào đoạn tiến về ngôi nhà.
Anh quan sát và thấy ngôi nhà quả là tệ quá. Ván đã long ra khỏi cửa sổ và khu vườn gần như không còn hình dạng gì. Ống khói bị thổi bay, vỡ nát nằm chỏng chơ trên lối vào cổng trước.
-Tên Goldstein này không phải là người thuê nhà tử tế.
-Hắn là tên keo kiết. Tôi đáp.
Khi họ đến gần cửa trước, tôi ngước lên và anh trên cửa ra vào han rỉ là vòm cửa lá sách kiểu rẽ quạt, bên hông đã nứt vỡ. Kính cửa đã rơi mất, chèn vào lỗ trống đó là cả lô rác rưởi. Khe cửa bên vòm phía trên quá hẹp, chàng cũng không biết sao tôi có thể lách qua nổi.
Như đọc được ý nghĩ của anh, tôi vội nói. “Em lọt qua được mà, cho em mượn vai anh đi.”
Anh khom lưng cho tôi leo lên vai, giống như ngày xưa họ từng chơi với nhau. Anh giữ lấy cổ chân rồi đứng thẳng lên, tôi có vẻ nặng hơn 1 chút so với trước kia.
Nhớ lại ngày ấy, đã biết bao lần anh cùng tôi trèo rào vào vườn Lord Lieutenant hái trộm đào. Anh mong rằng phi vụ lần này của hai nguời cũng qua trót lọt.
Tôi đẩy nan cửa qua 1 bên đoạn thót người lách qua trong khi anh nhìn theo lo lắng. Khi chân tôi rút được qua khe cửa, anh không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ bị phát giác, nhưng không còn thời gian để suy tưởng lan man nữa. Tôi đã tuột xuống thành công.
-Em không mở nổi cánh cửa này, nhưng mở cửa sổ cũng được.
Một lát sau, anh thấy tôi leo lên bệ cửa sổ và ráng hết sức đẩy mạnh cánh cửa. Anh giúp tôi đẩy rộng cửa, đoạn bước vào trong nhà.
-Em có đem theo nến. Tôi lục lọi trong túi áo khoác. “Anh kéo màn cửa lại đi.”
Màn cửa màu tối nặng nề. Tôi thắp lên 1 ngọn nến rồi thêm hai ngọn nữa. Căn phòng trông khác thường. Nhìn quanh anh thấy đồ vật ở đây toàn là thứ mà Isaac Goldstein xiết các con nợ túng hụt. Kia là các ghế dựa bọc bằng hàng dệt thượng hạng, chả có chiếc nào giống chiếc nào. Còn đó là chiếc bàn cẩn gỗ vô cùng giá trị cùng 1 lô thứ lạ lẫm để bừa bãi trên bàn. Có cả 1 bức tượng bằng đá cẩm thạch, 1 con chó bằng đồng, 1 đồ sứ Dresden tuyệt đẹp, tượng thiên thần Chelsea gẫy mất đầu, và 1 lô hộp hít mũi nhỏ có chạm tên chủ nhân bao quanh bằng kim cương.
-Trời ơi, giống như hang động Aladdin vậy. Anh kêu lên kinh ngạc.
Rồi anh còn thấy 1 chồng tranh vẽ xếp dựa vào tường, và ở 1 góc khác là 1 bộ áo giáp của các hiệp sỹ thời trung cổ đứng cùng 1 con gấu nhồi bông.
-Mình không nên lấy mấy thứ này, khó bán và dễ bị phát hiện lắm.
Tôi ngồi thụp xuống và kéo miếng thảm qua 1 bên, đoạn ráng nâng miếng gỗ lót sàn lên.
-Để anh làm cho.
Anh nâng miếng ván lên và khẽ huýt gió.
Ánh nến lung linh *** rõ hàng đống bao vải xếp chồng lên nhau.
-Em có đem theo bao gối. Tôi rút nó ra từ trong túi áo khoác đen.
-Chà, em chuẩn bị kỹ quá nhỉ. Mình lấy hết cả chứ.
-Lấy làm sao vác nổi thì thôi. Không ích lợi gì ngồi đây để điều tra mọi thứ, nhưng có lẽ mấy túi này chứa toàn là đồng bạc. Vậy thì mình phải lấy đi khá nhiều đủ số 1,000 bảng cho Joe Jarvis.
-Em nói đúng đấy, tốt hơn hết mình làm cho lẹ rồi mau thoát ra khỏi đây.
Áo gối may bằng vải gai dầy chứa gần đầy các túi tiền của Goldstein. Tôi nhìn 1 cách lo âu.
-Em hy vọng vải sẽ không bị bục ra.
-Anh cũng vậy, trông nó nặng khủng khϊếp.
Anh đặt lại ván sàn và tôi kéo lại miếng thảm về chỗ cũ. Anh mang bao gối đến bên cửa sổ, kéo lại màn cửa, và bỏ bao tiền qua cửa sổ. Hai con chó bên ngoài đang nhe răng vẫy đuôi mừng anh.
-Coi bộ lũ bạn em tán thành phi vụ của bọn mình, mặc kệ chủ tụi nó nói gì.
-Mau đi anh. Tôi năn nỉ anh. “Em còn phải đẩy lại nan cửa bên trên nữa.”
-Để anh lo việc đó. Anh nhắc 1 chiếc ghế rồi đẩy các nan cửa vào chỗ cũ, cũng như bỏ lại mớ rác rưới vào chỗ trống y như trước. Khi anh trở ra đã thấy tôi đang xoa đầu hai con chó.
Anh thổi tắt nến, trèo ra sau tôi.
-Goldstein có để ý là nến không được dập tắt thay vì thổi không.
-Khi hắn phát hiện ra thì chả quan trọng nữa.
Anh kéo cái bao lên. Như anh dự đoán, cái túi quá là nặng anh gần như đi khom lưng khi ra tới bờ rào. Họ đã đến gần rào và chợt nghe từ xa xa có tiếng bánh xe ngựa. Tôi tưởng mình nghe lầm, nhưng không phải, không những có tiếng bánh xe mà còn cả tiếng vó ngựa nữa. Tiếng động đang vang đến gần ngôi nhà!
-Mau đi. Tôi chực nói nhưng nhận ra anh phát hiện ra nhanh còn hơn tôi. Anh đã ném được cái bao qua hàng rào, và lặng lẽ nâng tôi lên. Họ đã qua được bờ rào. Anh cùng tôi xếp lại ngăn rào thì tiếng vó ngựa đã dừng hẳn. Cùng lúc họ nghe tiếng chó sủa vang. Tôi chắc rằng Goldstein đã về tới. Thật đúng vậy đó là tiếng sủa mừng chủ về chứ không phải sủa dọa kẻ trộm đạo.
Trong bóng tối, tôi đưa tay ra tìm anh
-Sao em nói là hắn không về nhà lúc khuya khoắt. Chàng nói với vẻ chế nhạo.
-Em… xin lỗi. Tôi ấp úng thì thầm.
-Đâu cần phải xin lỗi, mình an toàn rồi, chưa bao giờ anh thấy sợi thòng lọng treo cổ gần cổ anh đến như vậy.
Tôi rùng mình. Lần đầu tiên, phi vụ của họ hiểm nghèo đến như thế. Anh đang gom lại các túi tiền rơi vãi quanh đây vào bao gối đoạn vác hết lên vai.
-Đi thôi. Anh thấp giọng “đi càng xa chốn bẩn thỉu này càng tốt.”
Đường về trong đêm càng khó khăn hơn. Tôi bước phía trước, 1 lúc sau anh đặt tay lên vai tôi.
-Trong quân ngũ anh hay nghĩ là mắt mình sáng lắm, nhưng giờ đây thì giống như mù vậy.
-Em biết đường mà. Tôi đầy tự tin, nhưng cũng đưa tay ra lần để khỏi vấp vào cây cối hai bên.
Cuối cùng thì họ cũng ra được bên bờ suối, băng ngang cầu, trở về lại khu vườn của Priory.
Trên trời cao các vì sao bắt đầu ló dạng, khi băng qua sân cỏ êm ái trải dài tôi ngửi được hương cây cối trong vườn, tôi ngẩng lên dâng lời cảm tạ. Trộm cắp quả là điều sai trái, nhưng tôi biện minh việc này có thể dung thứ được mà.
Cửa sổ phòng khách vẫn còn mở, nến vẫn cháy sáng *** rọi những vách tường gỗ cũ kỹ, về đến đây mới thấy mọi vật ấm cúng và an toàn biết bao.
Anh buông bao gối xuống, và cho thêm củi vào lò sưởi. Tôi ngồi xuống thảm, lửa bùng lên chiếu những tia lóng lánh trên những lọn tóc đỏ của tôi.
Đột nhiên họ thật lặng yên, rồi tôi ngước lên nhìn anh, mắt của tôi lấp lánh đầy hứng khởi, miệng cười tươi.
-Mình làm được rồi ha anh.
-Trong đường tơ kẽ tóc. Chàng nói 1 cách xúc động. Em phải biết là nếu em không bị xử giảo hình vì tội đánh cướp đi nữa, thì em cũng sẽ bị lưu đày xa quê hương đấy.
-Ôi, anh đừng ca cẩm nữa, thử xem mình đem về những gì.
-Em giống như mấy kẻ sống ngoài vòng pháp luật, .
Anh định đưa tay với lấy bao gối, bỗng dưng đứng bật dậy.
-Đợi em 1 chút. Đoạn tôi đi kéo kín tất cả màn cửa lại.
-Mình không nên sơ hở, vì trước đây em cũng từng thấy Isaac Goldstein dấu tiền. Em đang trong vườn cho chó ăn và hắn trở về bất thình lình. Trời còn chưa ngả tối, sợ hắn phát hiện lúc em leo qua rào nên em trốn vào bụi rậm.
-Em thấy hắn khuân mấy bao này từ xe vào, bởi vì quá hiếu kỳ nên em lén theo dõi xem hắn đang làm gì với mấy cái túi này.
-Sao em lại có thể mạo hiểm đến vậy chứ. Chàng vờ nghiêm nghị.
-Nhưng mạo hiểm biến thành lợi lộc đó.
-Mở bao ra xem đi , em không đợi được nữa, xem có đủ 1,000 bảng cho Joe không.
Anh mở bao ra, và đổ tiền ra thảm.
-Chồng tiền lên đi em, mỗi chồng là 10 đồng cho dễ đếm.
Có 4 cái túi nhỏ có vẻ nhẹ hơn mấy cái kia, chứa toàn là bank-notes, khoảng chừng 1 đến 5 bảng mỗi tấm. Không có tiền bằng bạc hay đồng, mà toàn là vàng.
Cho đến khi họ đυ.ng đến chiếc túi chót, cả hai đều yên lặng như tờ. Lúc tôi sếp xong chồng tiền vàng cuối cùng, anh soạn lại các bank-notes.
-Cái túi này toàn tờ 5 bảng. Trời đất ơi.
-Gì vậy anh?
-Đó không phải đáng giá 5 bảng như anh nghĩ mà là 50 bảng.
-Không thể nào!
-Đúng như vậy. Ông bạn già Goldstein chắc là có nhiều con nợ lớn lắm.
-Đếm đi anh, đếm mau đi. Tôi kêu lên hớn hở. “… Luôn cả đồng vàng nữa.”
Chàng bắt đầu đếm, cuối cùng bằng giọng sững sờ chàng nói.
-Có lẽ anh lầm hay sao, có đến trên 6,000 bảng.
-Thật… không anh?
-Anh sẽ đếm lại.
-Tuyệt quá đi mất, không nói nổi luôn.
Một thoáng yên lặng, rồi anh nói.
-Anh không thể lấy hết số tiền này.
Tôi nhìn anh ngơ ngác.
-Đây không phải là việc chỉ lấy 1 số ít mà mình đã cướp đi cả gia tài của người ta.
Tôi ngưng 1 chút đoạn nói.
-Có hai điều anh đã quên.
-Điều gì?
-Điều đầu tiên, Goldstein đã bóc lột tiền từ những người túng bấn, những nạn nhân vô tình bị chui vô gông cùm của hắn không cách nào thoát khỏi như trường hợp của Joe Jarvis. Và điều thứ hai, mình không thể đem trả về chỗ cũ được nữa.
-Điều em nói là đúng, nhưng anh cảm thấy mình giống phường vô giáo dục.
Tôi trỗi dậy, ngước lên nhìn anh.
-Còn đỡ hơn là bị phá sản anh à.
Mắt anh nhìn tôi nghiêm nghị nhưng chợt phá lên cười.
-, em thật là… không thể tưởng. Giống như hồi còn nhỏ, em hay dụ anh chơi mấy trò nguy hiểm, rồi cuối cùng lại cứu anh thoát ra.
Anh vừa nói vừa cười, đoạn dang tay ôm lấy tôi.
-Em thật là phá như tinh, nhưng anh vô cùng biết ơn em.
-Vui quá hả anh! Bây giờ thì hết nguy hiểm rồi anh công nhận là vui đi.
Anh xiết chặt lấy tay tôi, rồi buông ra nói.
-Ừ thì vui, giờ thì mình làm gì với số tiền bất minh này.
-Em đã tính toán rồi. Tôi nói như sắp đứt hơi. “Em đã nhắn với bà Buckle, có nghĩa là tin tức sẽ lan đi khắp làng rất nhanh chóng, rằng trước khi rời London anh đã thắng 1 ván bài lớn. Em chắc là Swayer đã thông báo cho mọi người anh chẳng còn xu nào, nên đâu ai thắc mắc anh được hưởng của trời từ chỗ khác.
-Nghe có lý quá chứ! Em nói tiếp đi.
-Anh sẽ gửi cho Joe, nói với ông ta là anh được vận may nên bù đắp phần nào sự mất mát cho Joe. Cho luôn 100 bảng để Simon Buckle trả dứt nợ của Goldstein. Ít ra thì hắn cũng thu vào được chút đỉnh dù hắn chả đáng tí nào.
-Anh không hiểu sao phán quyết của em hình như hơi thiên vị, nhưng nếu anh nghe theo em mọi điều mình sẽ làm gì với số còn lại?
Ngưng 1 chút cô nói tiếp.
-Trả hết nợ cho mấy người buôn bán ngoài chợ. Trích ra 1 số tu bổ lại đất đai để cho thuê – vài trăm bảng là đủ. Phần còn lại thì là… tiền sính lễ… cho mira.🤬
Tôi nói với giọng nhỏ rứt và không hề nhìn anh.
-Tiền sính lễ cho mira. Chàng đáp lại dịu dàng. “Mình sẽ dấu tiền trong Priest’s Hole. Lúc này không nên trả quá nhiều tiền cho ngân hàng.”
-Dấu trong Priest’s Hole sẽ an toàn. Không ai biết chỗ này ngoài anh và em. Ba anh cũng không hề nhắc với ai, vì bác cũng chỉ biết được qua lời truyền lại từ ông nội anh thôi.
-Vậy thì mình cứ y như vậy. Anh đồng ý.
Anh lượm lên vài đồng vàng trước khi nói tiếp.
-Trừ phi em muốn có 1 ít, tiền của anh thì cũng như của em thôi. Anh muốn tặng cho em 1 món quà.
-Không được! Tôi cương quyết phản đối. “Em sẽ không đυ.ng đến 1 xu nào đâu!”
Tôi phản đối dữ dội đến nỗi làm anh vô cùng sửng sốt. Chợt thấy ánh mắt kinh ngạc của anh, Tôi vội nói.
-Anh từng nói cướp tiền ấy là cho… mira, mình không bao giờ được quên chuyện đó.
( Mọi người nếu thích truyện mình viết thì nhớ ủng hộ , để mình viết tiếp)🥺
- 🏠 Home
- Cổ Đại
- Ngược
- (ĐAM MỸ Phương Tây) Tình Yêu Vô Điều Kiện
- Chương 2