Khi Như Ý chạy đến mới biết hiện trường vụ án là căn phòng 1101, cách nơi cô và Nhân Đức tìm thấy vệt máu nạn nhân ở hành lang khoảng 15 mét.
Lúc này, toàn bộ người sinh sống trong căn hộ này đã được đưa đến đồn thẩm vấn, chỉ còn lại đội phó Minh cùng với mấy người khác đang loay hoay kiểm tra đồ đạc trong căn nhà để tìm dấu vết.
Như Ý vội đến mức không kịp thở, vừa đặt chân vào bên trong đã dõng dạc hô to:
“Báo cáo các anh, em đến rồi”.
Văn Chung đang đeo bao tay, cầm kính lúp soi một số vật dụng trong phòng khách, nghe tiếng Như Ý liền ngẩng phắt lên: “Như Ý, đến rồi à?”
“Vâng. Tình hình thế nào hả anh?”.
“Từ từ, em thở đi đã”. Anh ta nhìn mồ hôi lấm tấm trên trán cô, vừa thấy thương lại vừa buồn cười.
“Em vừa nghe vừa thở cũng được”. Như Ý nhoẻn miệng cười, ngữ điệu đã bắt đầu giảm bớt gấp gáp. Văn Chung cũng chẳng còn cách nào, đành lắc đầu kể ngắn gọn:
“Tạm thời những người sống trong căn nhà này khai không biết nạn nhân, họ về quê trong thời điểm nạn nhân tử vong nên không rõ biết chuyện gì xảy ra”.
“Không biết ấy ạ?”.
Văn Chung gật đầu: “Ừ, một nhóm trong đội mình đã về quê họ xác minh rồi. Bây giờ chủ nhà và những người có liên quan bị đưa về đồn thẩm vấn hết rồi. Chỉ còn mình bọn anh ở đây thôi”.
“Vậy làm cách nào mà các anh nghi ngờ đây là hiện trường chính của vụ án thế?”
“Chủ nhà là….”
Văn Chung còn chưa kịp nói hết câu thì đội phó Minh ở trong phòng ngủ cũng ló đầu ra, gọi một tiếng:
“Như Ý, vào đây xem cái này”.
Như Ý không kịp nghe Văn Chung nói hết, đành phải nhanh chóng chạy vào bên trong. Lúc bước vào, cô thấy Đức Minh đang đăm chiêu đứng trước một bức tường đối diện với giường ngủ. Ở đó có một phần tường được phủ một lớp sơn rất mới, màu sắc khác biệt hẳn so với lớp sơn ở phần tường cũ còn lại.
“Em nhìn cái này xem”. Đội phó Minh đeo bao tay kiểm tra vết sơn trên tường: “Vết này rõ ràng là sơn mới. Xét về độ bám bụi và màu sắc, khả năng mới sơn được gần 20 ngày”.
Vừa khớp với thời gian nạn nhân tử vong. Đây là lời mà không cần nói, cả cô và đội phó Minh đều ngầm hiểu.
Như Ý nghiêm túc đáp: “Vệt sơn này giống hệt với vệt sơn em và anh Đức đã tìm thấy ngoài hành lang. Đúng như anh nói, xét về màu sắc, độ bám bụi, và độ cứng của sơn trên bề mặt tường, khả năng lớp sơn này mới được sơn lên tường gần 20 ngày”.
“Ừ”. Đội phó Minh gật đầu: “Nếu sửa nhà, người ta sẽ sơn toàn bộ bức tường. Chỉ khi muốn xóa một dấu vết gì đó, người ta mới sơn một khoảng thế này mà thôi. Cũng như vệt sơn mà em tìm thấy ở hành lang, hung thủ muốn che đi vết máu nên mới dùng đến nó và chậu cây kia”.
“Vâng. Em cũng nghĩ như vậy”.
“Để anh thử dùng dao cạo, cạo lớp sơn bên trên xem”. Đội phó Minh quay đầu định lấy dao cạo, lúc này mới nhìn thấy khuôn mặt Như Ý. Sắc mặt cô tốt hơn hơn hôm qua, nhưng mắt lại có quầng thâm vì ngủ không đủ giấc, bất chợt, anh ta mới nhận ra mình hơi vô ý.
Đức Minh áy náy nói: “Như Ý, khám nghiệm hiện trường thì bọn anh có thể làm, nhưng có một vài chi tiết cần sự tỉ mỉ của pháp y. Em bị ốm mà vẫn bị kéo đến đây làm việc, cố gắng chịu khổ chút nhé”.
“Không sao, em khoẻ rồi mà”. Cô cũng lấy găng tay ở hộp dụng cụ gần đó, không muốn đôi co vấn đề này thêm, liền trực tiếp hỏi: “Các anh có mang theo luminol không?”
“Có, ở trong hộp đồ nghề để ở dưới sàn, em lấy đi”.
Bởi vì phòng ngủ phải dùng điện sáng để thuận lợi cho việc cạo sơn, cho nên Như Ý đành cầm dụng cụ đi thẳng vào phòng tắm. Tường bên trong được ốp bằng gạch granit, sàn cũng là gạch hoa chống trơn, xung quanh để mấy vật dụng sinh hoạt, nếu nhìn bằng mắt thường sẽ không thấy gì khả nghi. Nhưng thử đặt ra một câu hỏi: Nếu phải phân xác, theo tâm lý bình thường, hung thủ sẽ chọn nơi nào?
Tất nhiên là chỗ có thể dễ dàng rửa sạch được vết máu, dù có bắn lên tường cũng vẫn có thể dùng nước rửa trôi, không cần mất công dùng sơn mới đè lên như ở ngoài phòng ngủ kia. Nói một cách dễ hiểu, đó là phòng tắm.
Như Ý cúi người, nhanh chóng xịt luminol một lượt quanh khu vực gần vòi nước, sau đó mới đóng cửa lại, phòng tắm ngay lập tức trở nên mờ tối. Ba mươi giây sau, trước mặt cô dần dần xuất hiện một vài vệt sáng màu xanh mờ mờ rồi từ từ đậm lên, những vệt sáng như tia bắn lên tường hoặc những vệt sáng đọng thành vũng, đủ hình dạng và kích thước, là minh chứng rõ ràng nhất cho tội ác không thể dung thứ trong phòng tắm này.
Đúng như cô dự đoán, nạn nhân đã bị phân xác tại đây!
“Khốn k.iếp”. Như Ý không nhịn được chửi thề một tiếng, nhưng giọng cô rất nhỏ, chỉ có thể vang vọng trong phòng tắm nhỏ hẹp rồi nhanh chóng biến mất.
Như Ý cố nén cảm giác khó chịu ngồi xổm xuống, tỉ mỉ kiểm tra từng vệt sáng và chụp hình lại. Từ góc độ và cách thức phân bổ của ánh huỳnh quang đó, trong đầu cô tự phác hoạ ra từng động tác của hung thủ, tư thế nằm của nạn nhân, trong lòng không một chút sợ hãi.
Cái mà Như Ý cảm thấy nhiều nhất lúc này chỉ là sự phẫn nộ mà thôi. Lý do vì sao ư? Vì để có hình hài của một con người, người mẹ đã phải mang thai 9 tháng 10 ngày, sinh ra lại yêu thương và chăm sóc đứa trẻ ấy lớn lên, ròng rã hơn 20 năm, từ một đứa bé đỏ hỏn trở thành một cô gái đầy thanh xuân rực rỡ, còn có cả một tương lai dài ở phía trước. Vậy mà tên ác nhân kia lại tàn nhẫn khép lại cuộc đời của cô gái ấy theo cách dã man như vậy, thậm chí còn đối xử với thi thể của cô ấy bằng một sự tàn ác không thể diễn tả thành lời.
Một vụ án đau thương như thế, nếu không tìm ra chân tướng, nạn nhân sẽ không thể nào nhắm mắt, gia đình họ cũng không thể nào yên lòng. Đặc biệt là đội hình sự và cô, Như Ý hẳn cũng không thể nào thanh thản được.
Vậy thì cô sợ hãi cái gì chứ?
Như Ý quyết tâm cùng đội hình sự phá bằng được vụ án này, một mình cô trong phòng tắm rất lâu, kiểm tra không để sót dù một chi tiết nhỏ nhất. Lúc xong xuôi, đi ra bên ngoài thì đội phó Minh cũng vừa vặn cạo xong lớp sơn mới trên tường, bên trong lộ ra lớp sơn cũ cùng với rất nhiều vệt hình tròn màu nâu. Dưới con mắt của bác sĩ Pháp Y là cô, chỉ cần liếc qua cũng đủ biết đó là vết máu.
Sắc mặt đội phó Minh vô cùng nghiêm trang, không vội nói đến vệt màu nâu trên tường, chỉ hỏi cô: “Như Ý, kết quả trong phòng tắm thế nào?”.
“Em dùng luminol kiểm tra phản ứng, kết quả ở trong phòng tắm có rất nhiều vết máu. Em đã chụp ảnh làm tư liệu đây rồi”.
Đức Minh gật đầu, lại hướng mắt nhìn về bức tường đối diện: “Anh nghi ngờ vệt màu nâu này là vết máu nạn nhân. Như Ý, để máu bắn lên tường ở vị trí này thì hung thủ và nạn nhân phải ở tư thế nào?”
“Nạn nhân ngồi ở bàn trang điểm”. Cô nhanh chóng phác họa cách thức đâm của hung thủ trong đầu, nói một cách dứt khoát: “Máu bắn thành tia lên tường theo hướng từ dưới lên, điều này có nghĩa không phải do vảy vào. Giả sử như em bị đứt tay, vảy máu vào tường thì vết máu phải theo chiều từ trên xuống. Ở dấu vết này, hướng máu từ dưới thẳng lên trên, điều này chỉ xảy ra khi có vật gì đó đang bít mạch máu đột ngột bị rút ra, ví dụ như sau khi đâm xong, hung thủ rút dao ra khỏi cơ thể nạn nhân, máu sẽ theo lưỡi dao phun ra thành dòng rồi bắn lên tường như thế này”.
Một chi tiết rất bình thường nhưng Như Ý lại giải thích một cách vô cùng khoa học và logic, khiến đội phó Minh hết sức hài lòng: “Anh đã thử dùng luminol kiểm tra bàn trang điểm rồi, ở đó chỉ có lác đác một vài vết máu, không phải tia mà là các hạt rơi xuống”.
“Vâng. Bởi vì hung thủ đâm ở sau lưng nạn nhân”. Cô kéo chiếc đôn gỗ dưới bàn trang điểm ra, bình thản ngồi xuống: “Tính từ chân tường đến vết máu là 90cm đến 1,1 mét, độ cao tương đối thấp như vậy chỉ có hai trường hợp, một là nạn nhân cao dưới 1 mét 3, hai là nạn nhân đang ngồi. Nếu nạn nhân cao 1m62, khi ngồi chiếc ghế đôn cao 40cm này, chiều cao của cô ấy vừa vặn khớp với vết máu trên tường nếu như hung thủ ra tay. Từ phía sau, hắn phải đâm cô ấy đúng theo hướng này”.
Nói đến đây, Như Ý ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt đội phó Minh, dõng dạc nói từng chữ: “Anh Minh, những dấu vết này rất phù hợp với báo cáo khám nghiệm tử thi của em. 99% hiện trường chính của trong chuyên án AD20012 là ở căn phòng này”.
Mặc dù đã làm cảnh sát hình sự nhiều năm nhưng đội phó Minh vẫn bị những lời nói khí thế này của Như Ý làm cho dao động, không, phải nói là nhiệt huyết sôi sục thì đúng hơn. Đức Minh đã bị lây nhiệt huyết phá được vụ án này của Như Ý. Anh ta mỉm cười nhìn cô:
“Anh cũng nghĩ vậy. Trước tiên, chúng ta cứ lấy vật chứng trước đã”. Đức Minh đưa dao cạo vào tay cô: “Việc lấy mẫu này anh không giỏi lắm, Như Ý, em giúp anh lấy mẫu mang về giám định DNA nhé”.
“Vâng. Để em làm cho”. Cô lập tức lấy một đôi găng tay mới, cẩn thận cạo một vài vết màu nâu trên tường, sau đó mang về trụ sở công an giao cho bác sĩ Phương làm giám định DNA.
Lúc từ phòng xét nghiệm quay về, Như Ý đi ngang qua tổ tư vấn tâm lý, thấy ở bên trong sáng đèn, biết Nhân Đức đang ở bên trong nên cô rất muốn tiến đến gõ cửa. Nhưng vụ án vẫn còn đang ngổn ngang, hơn nữa cô vẫn còn phải xem lại mấy tấm ảnh chụp ánh huỳnh quang trong phòng tắm hiện trường, cho nên Như Ý đành phải gác việc tán tỉnh anh lại, đi thẳng về phòng mình.
Ở bên trong phòng tổ tư vấn tâm lý, ai đó nghe thấy tiếng bước chân ngập ngừng không theo quy luật nào ngoài hành lang cũng bất chợt dừng bút, Nhân Đức theo thói quen ngẩng đầu nhìn ra ô cửa sổ bên ngoài, vừa vặn thấy một bóng người mảnh mai đi lướt ngang qua.
Anh nhìn đến khi bóng dáng ấy đi khuất mới lặng lẽ rủ mi xuống, tiếp tục với công việc phân tích tâm lý hung thủ, dưới trang giấy của anh có khoanh tròn một chữ: Ngày 26/03/20xx, hiện trường tại tầng 11 phát hiện vết máu, Như Ý bị bắt cóc không thành!
***
4 giờ chiều, Như Ý đang bù đầu với đống ảnh ở hiện trường thì có tiếng gõ cửa bên ngoài. Đội phó Minh và mấy người trong đội 1 cầm mấy túi cơm hộp đi vào, nửa đùa nửa thật nói với cô:
“Như Ý, buổi trưa nay em quên ăn cơm phải không?”.
“A… em quên mất”. Cô gượng gạo gãi đầu: “Các anh ăn cơm chưa?”
“Chưa, mang cơm đến ăn cùng em đây”. Văn Chung nhìn quanh một vòng, phòng làm việc tạm này của cô không được gọn gàng cho lắm, nhưng vẫn có một sự sạch sẽ riêng của phụ nữ, khác hẳn căn phòng đầy mùi thuốc lá của đám đàn ông: “Đến ăn cơm mà cũng quên, em là người đang ốm đấy”
“Thôi đi, chỉ vì cái danh người ốm mà em bị cầm tù 2 ngày trong viện đấy. Em mới vừa được thả về với tự do thôi, anh đừng dọa cầm tù em nữa”
“Được nghỉ ngơi mà, em không thích à?”
“Em thích theo các anh phá án hơn”. Như Ý cười toe toét: “Vụ án đầu tiên của em mà”
Văn Chung cũng bật cười: “Ừ rồi, em khỏe rồi, không cầm tù em nữa. Ăn đi thôi”
Trong lúc ăn uống, mọi người lại tranh thủ nói đến vụ án, Như Ý hỏi mối quan hệ giữa chủ nhà và nạn nhân, mọi người mới kể lại đại khái. Chủ căn hộ 1101 kia tên Quỳnh, là người yêu hiện tại của Thái. Ngày 01/03/20xx, Quỳnh và bà nội đã về quê ở Quảng Ninh, không có mặt tại Hà Nội. Đội 1 đã điều tra lời khai này, xác định Quỳnh không nói dối nên đã thả cô ta ra, tuy nhiên vẫn cử người giám sát chặt chẽ.
Như vậy, xâu chuỗi lại các sự kiện thì giữa nạn nhân và chủ nhà có một mối liên hệ chung với nhau, đó là cùng quen biết Thái.
Đội phó Minh nói: “Có thể trong thời gian Quỳnh về quê, Thái đã đến nhà cô ta, sau đó gọi nạn nhân đến rồi s.á.t hại”.
Toàn đội đều đồng ý với khả năng này, tuy nhiên, nghe nói Đăng Dương thẩm vấn nghi phạm hơn nửa ngày trời mà vẫn chưa thu được gì khả quan, bây giờ vẫn đang thi gan với Thái.
Đức Minh cầm bản báo cáo của cô lên đọc, nhìn dòng kết quả giám định DNA trống trơn, lại thở dài:
“Bây giờ vấn đề là phải có kết quả giám định DNA máu trên tường trong phòng 1101 đó khớp với máu của nạn nhân, đồng thời xác định bằng chứng ngoại phạm của Thái là giả thì mới kết tội hắn được”.
Văn Chung ngồi bên cạnh Như Ý bất chợt nhỏ giọng: “Cả tìm ra đầu của nạn nhân nữa”.
Đúng vậy, phải tìm ra đầu của nạn nhân, thứ nhất là để thi thể cô ấy toàn vẹn, thứ hai là để gia đình cô ấy được yên lòng.
Họp xong, Như Ý hỏi đường đi đến phòng thẩm vấn. Dù làm ở viện pháp y 4 năm nhưng cô chưa từng được đến những nơi như vậy, Như Ý vừa tò mò lại vừa muốn biết quá trình thẩm vấn ra sao, cho nên mới đến đây xem thử.
Các anh công an bên trong nhận ra cô, vừa gặp mặt đã nói:
“Bác sĩ Như Ý đấy à?”.
“Ơ, em chào các anh ạ. Hình như em chưa gặp các anh lần nào, sao các anh lại biết tên em?”
“Biết chứ?”. Một anh công an có má lúm đồng tiền nói: “Hoa khôi hiếm hoi của ngành pháp y. Em nổi tiếng lắm, bọn anh ai cũng đều biết cả đấy”.
Như Ý cười cười, hỏi han xã giao mấy câu rồi xin phép vào bên trong. Phòng thẩm vấn không khác trên phim là bao, bên ngoài có hai giám sát viên đang theo dõi quá trình thẩm vấn qua màn hình, cách một ô cửa kính trong suốt là một căn phòng khác.
Căn phòng đó tường sơn màu đen, chỉ có một chiếc bóng đèn duy nhất, ở giữa phòng là một chiếc bàn và hai chiếc ghế, cùng với một số máy quay. Cách trang trí này khiến người ta có cảm giác ngột ngạt, tinh thần cũng trở nên căng thẳng. Rất phù hợp với hai chữ: Đấu Trí.
Như Ý gật đầu chào giám sát viên, nhìn qua ô cửa kính kia thấy Đăng Dương đang chống tay lên bàn, hỏi một cách đanh thép và quyết liệt: “Vào tối ngày 01/03/20xx, cậu đã làm gì, ở đâu?”
Nghi phạm là một thanh niên trông có vẻ thư sinh, gương mặt rất sáng sủa: “Tôi nói rồi, hôm đó được nghỉ nên tôi ở nhà cả ngày chơi game. Có chú chủ trọ làm chứng”.
“Ở trong phòng tức là chỉ có một mình anh đúng không?”
“Đúng”
“Vậy nghĩa là không ai làm chứng lúc anh ở trong phòng?”
Hắn không mất cảnh giác, đưa tay đẩy gọng kính lên cao, bình tĩnh đáp: “7h sáng tôi có mở cửa phòng, 15 phút sau thì đóng lại, chủ nhà có nhìn thấy. 7h tối tôi mở cửa ra lần nữa, lúc đó nhà chủ đang ăn cơm. Khu trọ của tôi chỉ có một lối ra, ai ra ngoài thì chủ nhà sẽ nhìn thấy ngay. Hoặc anh có thể kiểm tra camera khu trọ của tôi cũng được”.
“Nửa đêm ra ngoài thì sao?”
“Khu trọ của tôi là khu trọ khép kín, 10h tối là khoá cửa, không ra ngoài được”.
Quả thực, đội hình sự đã kiểm tra phòng trọ của Thái, xác định khu trọ này chỉ có một đường ra vào, chủ nhà cũng không thấy anh ta ra khỏi phòng, thế thì anh ta s.á.t hại nạn nhân và phi tang bằng cách nào?
Đăng Dương tiếp tục hỏi: “Cậu ở trong phòng chơi game từ 7h sáng ngày 01/3 đến 3h sáng ngày 02/3?”
“Vâng”
“Chơi game liên tục không nghỉ?”.
Hắn cúi đầu, cười gượng gạo: “Chơi game mà, đã chơi là ham, chơi mười mấy tiếng cũng không sao cả”.
“Trong quá trình chơi game không ngắt quãng?”
“Đúng”
“Không đi vệ sinh? Không ăn uống?”.
“Có”. Thái đáp: “Nhưng chỉ có mấy phút thôi, tôi vừa chơi vừa ăn. Hoặc có đi vệ sinh thì vẫn treo máy ở đó, đồng đội của tôi có thể đánh thay phần của tôi khoảng 10 đến 15 phút”.
“Như vậy có nghĩa là đồng đội cậu có thể đánh cả phần của cậu mà không cần phải thoát nhân vật?”
Thái vẫn không bị mấy câu hỏi quanh co của Dương làm dao động tinh thần: “Chỉ có thể đánh thay tối đa 15 phút thôi, bởi vì một team phải đủ số người mới không bị đội khác g.iế.t”.
“Cậu chơi game gì?”
“Tôi chơi game Võ lâm truyền kỳ. Hôm đó tôi chơi đến tận 3 giờ sáng ngày hôm sau mới đi ngủ. Có những người bạn trong game của tôi có thể làm chứng”.
“Bạn trong game làm sao có thể làm chứng?”
“Game Võ lâm truyền kỳ không thể thoát ra khi đang chơi. Hôm đó tôi chơi cùng đội, không bỏ trận nào, cũng không hề thoát game. Tôi đã ngồi máy tính từ 7h sáng ngày 01/03 đến tận 3 giờ sáng ngày 02/03, chơi 17 trận game liên tiếp. Các anh có thể hỏi những người bạn chơi cùng tôi, hoặc kiểm tra thời gian chơi game của tôi ngày 01/3”.
“Những người bạn trong game đó tên gì?”.
Nguyễn Văn Thái đọc ra 7 cái tên, ở phía phòng thẩm vấn bên kia, giám sát viên xác nhận 7 người bạn game đó thực sự chơi cùng với Thái đến tận 3 giờ sáng.
Quá trình hỏi cung này đã lặp lại gần một ngày trời, Nguyễn Văn Thái vẫn bình tĩnh không bị mắc mưu, hắn lì lợm đến mức một người đã có kinh nghiệm hỏi cung như Đăng Dương cũng phải đau đầu.
Một lúc sau, Đăng Dương tạm ngưng hỏi cung rồi đi ra bên ngoài, khi nhìn thấy Như Ý, vẻ mặt căng thẳng của anh ta liền thoáng qua vẻ ngạc nhiên:
“Như Ý, em xuất viện rồi à?”.
“Vâng”. Cô hỏi: “Chưa có tiến triển gì hả anh?”.
“Nó nhận quen nạn nhân nhưng không nhận tội, nói có chìa khóa căn 1101 nhưng nó không đến, chỉ ở phòng trọ chơi game”.
“Điều tra bạn game cùng thì sao hả anh?”
“Tất cả đều xác nhận chơi cùng Thái đến 3 giờ sáng ngày 02/03”.
Trong báo cáo của cô, thời gian nạn nhân Hiên tử vong là ngày 01/3, nếu như Thái có bằng chứng ngoại phạm vào thời gian đó thì khó mà buộc tội hắn, nhưng Như Ý cứ thấy bằng chứng ngoại phạm này rất kỳ quái.
Đăng Dương thấy cô có vẻ suy tư liền hiểu Như Ý muốn nói gì, trong lòng anh ta cũng có cảm giác như cô, nhưng lại không thể tra ra điểm đáng ngờ: “Anh thẩm vấn chủ phòng trọ chỗ nó thuê rồi, ông ấy xác nhận nó ở phòng cả ngày, sáng mở cửa một lần, tối mở cửa một lần, cả ngày không ra khỏi phòng. Kiểm tra camera cũng không thấy Thái đi ra. Giả sử Thái trèo qua cửa sổ ra ngoài rồi có người khác trèo vào chơi thay cũng không đúng, anh kiểm tra vết cửa sổ rồi, trẻ con 5 tuổi cũng không thể chui lọt”.
“Có khả năng chủ nhà là đồng phạm không hả anh?”
“Không, ông ấy không có mâu thuẫn với nạn nhân, hơn nữa Thái cũng chỉ là người thuê trọ, ông ấy không có lý do hay động cơ gì để giúp Thái”.
Đăng Dương thở dài: “Nếu không tìm sơ hở trong bằng chứng ngoại phạm của Thái, dù vết máu ở phòng 1101 có là của nạn nhân thì cũng khó mà buộc tội hắn được”.
“Các anh đã thử nhờ đến tổ tâm lý tội phạm chưa?”. Như Ý biết, khi phá án truyền thống rơi vào bế tắc thì phương án khả thi nhất là sử dụng tâm lý học tội phạm.
Tuy nhiên, đội 1 vẫn không có sự tin tưởng vào cách phá án mới mẻ này: “Ý em là bảo Đức tìm phương án hỏi cung á?”. Đăng Dương đột nhiên có vẻ hơi lưỡng lự: “Anh Minh có vẻ vẫn chưa tin tưởng tâm lý học tội phạm lắm”.
“Em đã từng đọc qua mấy vụ án được phá bằng tâm lý học tội phạm ở nước ngoài. Tất cả đều chính xác và rút gọn được rất nhiều thời gian cho cảnh sát. Tâm lý học tội phạm không phải là phá án dựa theo cảm tính, đó là dựa theo suy luận có căn cứ và logic. Ở trong đội có một tiến sĩ được du học ở nước ngoài, năng lực của anh ấy được cả nước ngoài lẫn trong nước công nhận, anh ấy có khả năng phác họa hung thủ và cách thức thực hiện của hung thủ cực tốt. Cấp trên đã mất công mời anh ấy về tận đây làm việc, sao chúng ta lại lãng phí nhân tài thế chứ?”
Đăng Dương nhìn cô hồi lâu, không thể phản bác được cô, sau cùng cũng đồng ý với ý kiến của Như Ý, quyết định đến tổ tâm lý học tội phạm một chuyến.
Không phải là mời Nhân Đức đến phòng thẩm vấn để nghe quá trình hỏi cung nghi phạm, mà là Đăng Dương đến tham khảo ý kiến của anh. Dù anh có xuất sắc ở nước ngoài thế nào thì đội 1 vẫn không coi anh là một phần quan trọng của mọi người, bọn họ chỉ đến tìm Nhân Đức khi gặp bế tắc, cần tìm thêm phương hướng phá án mà thôi.
Như Ý cảm thấy bất mãn thay anh, nhưng nghĩ lại, Nhân Đức của cô tài giỏi như thế, sợ gì không chứng minh được với người khác năng lực chứ? Cô tin, sẽ có một ngày đội 1 sẽ hiểu sự quan trọng của anh thôi.
Sau khi Đăng Dương từ phòng làm việc của Nhân Đức đi ra, anh ta lập tức rẽ sang phòng Như Ý. Câu đầu tiên hỏi chính là: “Em có bận không?”.
Cô gập cuốn sổ nhỏ dùng để ghi chép các vấn đề quan trọng trong khám nghiệm của mình, lắc đầu: “Không ạ, em đang đọc lại ít tư liệu thôi. Sao thế anh? Cần em đi đâu à?”.
“Anh chuẩn bị đến chỗ trọ của Thái một chuyến, em đi cùng không?”.
“Anh Đức cũng đi hả anh?”. Từ tổ tâm lý tội phạm đi ra đã vội vã đề nghị như vậy, cô không cần đoán cũng biết, nhưng lại vẫn muốn hỏi.
“Ừ. Cậu ấy đưa ra đề nghị đến đó mà. Đức nói bằng chứng ngoại phạm của Thái được thiết lập ở phòng trọ, muốn kiểm tra hắn nói thật hay nói dối, vẫn phải đến hiện trường kiểm tra tính xác thực”. Đăng Dương nhớ lại lúc ở trong phòng của Nhân Đức, anh ta cũng như đội phó Minh, không có nhiều sự tin tưởng đối với mấy lý thuyết tâm lý học tội phạm gì đó. Tuy nhiên, sau khi nghe Nhân Đức phân tích những điểm sơ hở trong lời khai của Thái, anh ta mới chợt nhận ra mình đã bỏ sót rất nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại vô cùng quan trọng. Đăng Dương có chút cảm khái, khi nói chuyện với Như Ý về Nhân Đức, ngữ điệu cũng mềm mỏng đi rất nhiều: “Anh thấy cũng nên như vậy”.
Như Ý nghe xong, trong lòng phút chốc như nở cả một rừng hoa, chỉ hận không thể vêmh mặt nói to: Đấy, em biết mà, em biết anh Đức giỏi mà. Tuy nhiên, cô lại không thể làm vậy, rút cuộc chỉ có thể tự cười trong lòng một mình mà thôi.
Như Ý lúc nào cũng vậy, luôn cảm thấy tự hào vì anh, vui vẻ cũng vì anh, phổng mũi thay cho anh.
Cô lập tức đứng dậy: “Được ạ. Chúng ta đi thôi”.
***
Từ phòng cảnh sát hình sự đến khu trọ của Thái khoảng 5 kilomet, đi ngược hướng hiện trường vụ án.
Lần này, Đăng Dương là người lái xe, đi theo còn có Văn Chung, Như Ý và Nhân Đức ngồi ở hàng ghế phía sau. Trên đường đến đó, mọi người đều rôm rả trò chuyện về vụ án, chỉ có Nhân Đức cả quãng đường luôn trầm mặc không nói gì.
Như Ý biết tính cách của anh luôn lãnh đạm với người lạ, vả lại, Nhân Đức của cô cũng thường không nói nhiều, cho nên, cô đành phải tự biến mình thành cầu nối, mở miệng hỏi anh:
“Anh có suy đoán gì không?”
Nhân Đức liếc cô, bình thản đáp: “Suy đoán chuyện gì?”
“Về bằng chứng ngoại phạm của Thái ấy? Anh cảm thấy nó là thật hay giả?”. Cô thở dài: “Nếu là thật thì toàn bộ đội hình sự đang đi sai hướng, nếu là giả thì em cảm thấy rất khó hiểu. Một người bình thường không có khả năng mọc cánh để bay đi được”.
“Đúng thế, một người bình thường sẽ không có khả năng mọc cánh để bay đi được”. Ngữ điệu của anh vô cùng điềm đạm, khiến người khác có cảm giác rất yên tâm và tin tưởng: “Đôi khi thị giác và cách đánh giá chủ quan của con người rất dễ làm sai lệch sự thật. Dù sự thật thực sự lại hoàn toàn trái ngược với những gì họ cho là đúng. Ví dụ như cứ nghĩ loài vật nào có cánh cũng bay được”.
Đăng Dương và Văn Chung không hiểu được những lời này của Nhân Đức, chỉ có Như Ý biết anh đang muốn nói đến điều gì. Cô gật gù: “Đúng vậy, chim cánh cụt có cánh nhưng cũng đâu thể bay được? Một số sự việc cũng tương tự như vậy. Nhìn thấy, nghe thấy nhưng không mang giá trị khẳng định”.
Nhân Đức mím môi nhìn cô, không đáp, nhưng Như Ý biết mình đã đoán đúng ý anh rồi.
Cô lập tức nở một nụ cười tươi rói, hàm răng trắng đều tăm tắp, nụ cười đẹp như ánh nắng mùa thu. Chói chang, rực rỡ.
Trước đây mỗi lần nhìn thấy nụ cười này, Nhân Đức đều sẽ đỏ mặt quay đi, Như Ý không rõ bây giờ anh sẽ thế nào, cho nên còn cố ý lợi dụng môt khúc cua để nhích lại gần anh, để anh nhìn rõ cô hơn. Nhưng Nhân Đức liếc thấy vẻ mặt đầy gian trá của Như Ý, liền biết trong lòng cô đang nghĩ gì, anh dứt khoát mặt lạnh quay đi, nghiêng đầu nhìn ra cửa sổ.
Tuy nhiên, Như Ý không hề phật lòng vì chuyện này, cô vẫn có cảm giác rất hưởng thụ, bởi vì lúc này cô ngồi ở rất gần anh, có thể ngửi thấy mùi cơ thể trong sạch của anh, còn thấy được yết hầu vừa trắng lại vừa nam tính của Nhân Đức. Có trai đẹp thế này ở bên mình, yêu còn chẳng đủ, giận hờn làm gì cho tổn thọ chứ?
Xe chạy hơn 20 phút, cuối cùng cũng đến khu phòng trọ của Thái. Nơi này là một khu dân cư có thu nhập trung bình, ở đầu ngõ là một quán bán hàng tạp hóa, đi sâu vào bên trong là một dãy trọ khép kín hơn 10 phòng, đối diện là một ngôi nhà hai tầng của chủ nhà.
Nhân Đức chắp tay sau lưng, ánh mắt lặng lẽ quan sát lối ra vào nơi này một lượt. Như Ý đứng cạnh anh, nhỏ giọng nói: “Đúng là chỉ có một lối ra, muốn đi từ phòng trọ ra ngoài thì phải qua sân của chủ nhà”. Tay cô chỉ lên camera trên đầu hai người: “Camera chỗ này, nếu anh ta đi ra sẽ bị thu hình lại ngay”.
“Chủ nhà nói thế nào?”.
“Nói cả ngày 1/3 không thấy Thái đi ra ngoài. Camera cũng không ghi được hình anh ta đi ra”.
“Em biết sơ hở ở đây là gì không?”
Cô ngơ ngác nhìn anh: “Em không biết”.
“Là ngày 1/3”. Anh đáp ngắn gọn, sau đó lẳng lặng đi vào trong sân. Chủ nhà gặp người lạ thì định mở miệng hỏi, nhưng lại thấy Đăng Dương và Văn Chung đi phía sau, vì đã quen mặt hai người bọn họ nên ông ta ngay lập tức thay đổi thái độ:
“Tôi đã nói rồi, phải khai với các anh bao nhiêu lần nữa đây, cả ngày hôm ấy thằng Thái không ra khỏi nhà, ở trong phòng cả ngày. Các anh cứ đến liên tục thế này, người ta nhìn thấy công an đến suốt thì tôi còn làm ăn được gì nữa”.
“Sao bác biết Thái không ra khỏi nhà?”. Nhân Đức gật đầu chào chủ nhà, sau đó đi thẳng vào vấn đề.
“Sáng tôi thấy cậu ta mở cửa phòng, lúc đó tôi đang đi vòng quanh sân để thể dục. Đi hết 5 vòng thì cậu ta đóng cửa. Mà hôm đó nhà tôi cũng có cỗ nữa, mọi người lục đυ.c nấu ăn ở sân cho đến chiều mà có thấy cậu ta đi ra đâu. Mấy cái thằng oắt con thích game này ấy à, có mà chơi xuyên ngày xuyên đêm cũng không muốn ra khỏi phòng”.
“Chính mắt bác thấy cậu ấy mở cửa phải không ạ?”.
“Cái cậu này, không nghe à? Tôi đã bảo cậu ta…”
Ông ta nói đến đây thì đột nhiên nhớ ra gì đó nên khựng lại. Nhân Đức bắt lấy cơ hội này, tiếp tục hỏi lại: “Bác thấy Thái ra mở cửa phải không? Cậu ấy dùng tay nào mở cửa?”.
Đăng Dương nhíu mày khó hiểu nhìn Nhân Đức, anh vẫn bình thản như không, chỉ có chủ nhà là sắc mặt biến đổi. Ông ta ấp úng đáp: “Tôi chỉ thấy cửa mở, không thấy cậu ấy ra mở cửa. Nhưng cậu ấy có đóng cửa lại mà. Lúc cửa mở tôi còn thấy cậu ấy đang ngồi chơi game”.
“Bác có thấy Thái đứng dậy đóng cửa không?”
Ông ta xấu hổ lắc đầu: “Không. Nhưng tôi nghe giọng cậu ấy hò hét chơi game. Nói gì mà ‘tiến lên’, ‘đánh boss đi’, ‘sao mày chơi ngu thế’… Đại loại là thế”.
Nhân Đức không hỏi thêm, chỉ cười đáp: “Cháu biết rồi, cảm ơn bác”.
Sau đó, bọn họ vào phòng trọ của Thái một lần nữa, bởi vì đây là nơi ở của nghi phạm nên tạm thời công an giữ chìa khóa, không cho người lạ vào bên trong, cho nên mọi thứ vẫn được giữ nguyên như khi Thái chưa bị bắt.
Lúc Văn Chung mở cửa ra, bên trong lập tức xông ra một mùi ẩm mốc rất nồng, mùi của mồ hôi, thuốc lá và chăn gối lâu ngày chưa giặt. Như Ý nhìn vỏ mì tôm ngổn ngang trong thùng rác, lại thấy gạt tàn đầy ắp mẩu đầu lọc thuốc ở trên chiếc bàn gỗ trong phòng, liền có chút cảm khái. Đúng là con nghiện game đều có một điểm chung, ở bừa bộn và thường ăn mấy thứ thức ăn nhanh. Nơi gọn gàng nhất trong phòng có lẽ là chỗ để máy tính.
Đăng Dương bước lên phía trước một bước: “Tôi đã kiểm tra rồi, trong phòng này không có bất kỳ dấu vết gì khả nghi cả”.
“Dấu vết về tang vật vụ án hay dấu vết ngoại phạm?”. Nhân Đức thẳng thừng hỏi.
Câu nói này đánh trúng sơ xuất của Đăng Dương, khiến anh ta chợt cảm thấy rất ngượng ngùng. Thông thường cảnh sát chỉ điều tra nơi ở của nghi phạm để tìm dấu vết tang vật, anh ta đã bỏ qua hẳn công đoạn điều tra dấu vết ngoại phạm của Thái, mà thực ra cũng không rõ phải điều tra từ đâu.
Đăng Dương hắng giọng đáp: “Dấu vết về tang vật của vụ án”.
“Theo tâm lý tội phạm thông thường, nếu g.iế.t người ở nơi khác, hẳn sẽ phi tang những dấu vết liên quan đến vụ án ở những nơi ít có người chú ý đến như bãi rác hoặc ném xuống sông. Bởi vì khi hắn bị nghi ngờ, công an sẽ điều tra nơi ở đầu tiên”. Nhân Đức nói: “Nghi phạm có bằng chứng ngoại phạm ở căn phòng này, cho nên hãy tập trung điều tra bằng chứng ngoại phạm ở chính nơi này”.
Văn Chung thấy Đăng Dương bị nói đến xấu hổ như vậy, liền nổi cáu: “Anh có ý kiến gì thì mau nói đi. Đừng ở đó ra oai với người khác”.
Nhân Đức không hề bận tâm đến cậu ta, chỉ lạnh nhạt xoay người nhìn khắp căn phòng một lượt. Như Ý hiểu rõ tính anh, cũng không đôi co nhiều. Cô phát hiện ra ánh mắt anh dính chặt lên hai chiếc đồng hồ treo tường trong phòng, liền nhận ra có thứ gì đó không đúng.
Cô buột miệng nói: “Chiếc đồng hồ đó… không đúng”.
“Một phòng cần hai chiếc đồng hồ để làm gì?”
“Chỉ cần một cái là đủ”. Cô ngẩng lên nhìn anh: “Một người nghiện game như Thái sẽ không dùng đến đồng hồ mới đúng”.
Nhân Đức gật đầu: “Trong máy tính luôn hiển thị đồng hồ, vì vậy, nếu cần xem giờ, cậu ta chỉ cần kéo màn hình xuống là đủ. Hoặc nếu không muốn kéo màn hình xuống làm ảnh hưởng đến trận game, em sẽ làm gì?”.
“Em sẽ nhìn đồng hồ, nhưng vì hay ngồi ở bàn chơi game nên em sẽ để đồng hồ ngay trên tủ trước mặt, nơi dễ thấy nhất mà không phải quay đầu”. Như Ý ngay lập tức tưởng tượng ra bản thân mình là Thái, đặt vị trí của cô vào nghi phạm, lập tức hiểu ra điểm sai. Đăng Dương và Văn Chung cũng cảm thấy chi tiết này vô cùng kỳ lạ.
Nhân Đức tiếp tục: “Trong lời khai của chủ nhà, Thái mở cửa lúc 7h sáng, 15 phút sau đóng lại. 7h tối cậu ta lại mở cửa ra lần nữa. Tại sao nhất định lại phải mở cửa vào đúng 7 giờ?”.
Đầu Như Ý nổ ầm một tiếng, ngay cả hai người đàn ông bên cạnh cũng lập tức sửng sốt phát hiện ra mình đã bỏ qua một dấu vết quan trọng như thế nào. Những chi tiết vốn dĩ vô cùng đơn giản nhưng lại là mấu chốt cực kỳ quan trọng của vụ án, nếu không có tiến sĩ tâm lý học tội phạm Nhân Đức chỉ ra, liệu bọn họ có thể nghĩ đến được không hay vẫn kiên trì đi theo lối tư duy truyền thống, tìm các đường khác trong phòng trọ này để chứng minh Nguyễn Văn Thái đã lẻn ra ngoài thông qua đó?
Đăng Dương nói: “Ý anh là Thái đã dùng đồng hồ này để đóng mở cửa theo đúng thời gian đã định? Bằng cách nào?”.
Nhân Đức không trả lời, chỉ cụp mắt nhìn Như Ý. Lúc này, cô đang quan sát một chiếc định dài chìa ra trên tường, không có ý định lên tiếng. Tuy nhiên, anh lại nói: “Cô ấy biết cách giải thích”.
“Như Ý?”. Đăng Dương ngạc nhiên hỏi lại.
Như Ý vốn dĩ không định cướp công lao của Nhân Đức, nhưng khi thấy mình được anh tin tưởng, giao cho nhiệm vụ giải thích, liền cảm thấy rất phổng mũi. Cô liếc ánh mắt bình đạm và kiên định của anh, trong lòng còn có cảm giác như đang được Nhân Đức động viên. Như Ý không muốn làm mất mặt anh, nhanh chóng hít sâu vào một hơi rồi dõng dạc nói:
“Giả sử em thắt một nút không cố định vào móc cửa, sau đó kéo một bên sợi dây buộc vào kim giờ, buộc vào trong trạng thái dây chùng xuống nhé? Vì thời gian luôn chuyển động nên kim giờ cũng sẽ chuyển động, dây cũng bị cuộn lại theo kim đồng hồ. Nghi phạm chỉ cần căn lượng dây chùng làm sao khi kim giờ chỉ đến số 7 thì lượng dây đó sẽ được kéo căng đến mức đủ làm nút thắt bung ra. Ví dụ như thế này”.
Vì phòng trọ của Thái không có chiếc dây nào, cho nên Như Ý phải tháo dây buộc tóc của mình ra, dùng tay xé đứt, sau đó mô phỏng lại việc thắt nút.
“Thắt nút một vật gì đó là một việc rất đơn giản, khi dây chùng, nút thắt sẽ được giữ nguyên, khi một đầu căng ra, nút thắt sẽ tự bung ra. Điều này giải thích cho việc hẹn giờ mở cửa của nghi phạm. Đúng 7h thì dây sẽ căng ra, nút thắt bung, cửa sẽ tự mở. Đây là phương thức hẹn giờ mở cửa rất đơn giản”.
“Vậy giờ đóng cửa thì sao?”. Văn Chung hỏi: “Thái làm cách nào để đóng cửa?”
Như Ý mới chỉ suy luận đến việc mở cửa, còn đóng cửa thế nào, cô vẫn chưa nghĩ ra. Cô ngẩng lên nhìn Nhân Đức, thấy anh đang đứng trước cửa phòng, ánh mắt như vô tình liếc qua bản lề rồi lại liếc nhìn cô.
Anh nói: “Bản lề phòng này đã được sửa rồi. Ban đầu vốn là cứ mở ra cửa sẽ tự đóng do bản lề sử dụng lâu ngày, cửa không thể giữ nguyên vị trí được, thường phải chèn một viên gạch hay vật nặng để giữ cửa mở cố định”.
“Sao anh biết?”
“Các phòng bên cạnh cũng như vậy. Dãy trọ này xây cùng một năm, cửa các phòng lẽ ra phải giống nhau mới đúng”.
Nghe anh nói vậy, Như Ý mới nhớ ra, khi bước vào khu trọ, Nhân Đức đã nhìn những phòng khác một lượt. Còn cô, ngoài để ý những cánh cửa đó có một cục gạch chèn cửa ra cũng không suy nghĩ gì thêm.
Đến lúc này, Đăng Dương không thể không phục mắt quan sát của Nhân Đức, người đàn ông là tiến sĩ tâm lý học tội phạm này dường như không bỏ sót bất cứ thứ gì, từ những thứ nhỏ nhất mà không một ai nghĩ đến.
Đăng Dương hít vào một hơi: “Cho nên chỉ có thể giải thích, ở chiếc đồng hồ thứ 2 trước đó cũng đã được buộc một sợi dây khác, nhưng sợi dây này không hề buộc nút thắt mà buộc cố định, sợi dây luồn qua chiếc đinh dài thò ra kia để làm điểm tựa để đóng cửa. Ở chiếc đồng hồ này, hắn căn điểm thu của dây quá 7h một chút, lúc kim đồng hồ chỉ đến 7 giờ 15 phút, khớp dây sẽ nối vào kim giây, xoay hết vài vòng thì dây cước sẽ tự thu lại. Bình thường một sợi dây cước và một kim giây sẽ không đủ lực để đóng cửa, nhưng khi bản lề của cửa đã cũ và thường tự đóng lại, lực từ dây cước sẽ hỗ trợ để nó đóng khít và đóng đúng giờ”.
Nói đến đây, Đăng Dương lại ngẩng lên nhìn Nhân Đức, kính trọng hỏi một câu: “Có đúng không bác sĩ Đức?”.
Anh không hề tự cao, thậm chí còn cho đội hình sự mặt mũi. Nhân Đức nói một cách khiêm tốn: “Đúng như suy đoán của anh. Tôi nghĩ Thái đã dùng cách đó để tạo bằng chứng ngoại phạm giả”.