A Trữ cung kính đáp: “Nữ công tử đã lớn, cũng cần biết chuyện rồi. Sau khi gia chủ về, chuyện của người đều có bọn họ làm chủ, không cần tới cái đám do thúc phu nhân sai đến lúc trước nữa.”
Câu nói này có chứa ẩn ý. Du Thái Linh vừa che giấu suy nghĩ trong bụng, vừa giả vờ không vui, dẫu môi nói: “Nếu mẫu thân đã biết thẩm thẩm không tốt với ta, vì sao không cho người đến hầu hạ ta từ sớm? Bắt ta phải chịu khổ.” Giả vờ làm một cô bé không hiểu chuyện đúng là dễ dàng.
A Trữ cười đáp: “Mấy năm trước bên ngoài có loạn, thư từ không gửi được, hơn nữa những việc vặt vãnh trong nhà, dù chủ mẫu có biết cũng không thể quản xuyến kịp thời, nhà này do thúc phu nhân làm chủ, chủ mẫu chỉ phái người đến thì cũng làm được gì.” Thực ra nguyên văn của Tiêu phu nhân là: Hiếm gặp được kẻ hầu trung thành, nay chính là lúc dùng người, đừng sa vào thủ đoạn của đám phụ nữ trong nhà.
Du Thái Linh đã mồm mép xắt xéo từ nhỏ, tính sỉ vả Tiêu phu nhân ‘tài đức vạn năng’ mấy câu, nhưng nhìn thấy vẻ mặt mệt mỏi của A Trữ lại không đành lòng.
Từ khi đến nơi này, không ai thân với cô bằng người phụ nữ trung hậu kiệm lời trước mặt. A Trữ lúc ấy làm việc rất cẩn trọng, không dám tìm thêm nô tỳ đến giúp, tự đảm đương quán xuyến mọi việc. Những lúc Du Thái Linh không ăn nổi là A Trữ lại bón từng thìa canh; để hạ sốt cho mình mà vào mùa đông lạnh giá tuyết rơi dày, A Trữ cũng đun nước nhiều lần, lau người thay quần áo cho cô, nhưng nước giếng đông tới nỗi chỉ có thể xúc tuyết lên để làm tan, kết quả mấy ngón tay được bảo dưỡng của A Trữ cũng dần nứt nẻ; vì mình chê món canh nhiều dầu mỡ, bà đã đích thân lên núi đào tuyết để hái nấm và rau dại cho vào canh. Chắc chắn những ngày qua A Trữ chưa được nghỉ ngơi, thôi để bà ấy bớt chuyện vậy.
Du Thái Linh cúi đầu nói: “Ta nghe lời phó mẫu.” Nếu để người hồi trước luôn túc trực cả ngày bên cạnh tới, chính cô cũng không cam đoan là sẽ không hớ lời; thực chất không phải cô sợ có người nói mình không phải là “nàng”, mà chỉ sợ đám người mê tín này đồn thổi cô bị vu sĩ ám hại ma quỷ nhập người gì gì đó.
A Trữ rất hài lòng, hầu hạ Du Thái Linh súc miệng ăn cháo.
Nếu phó mẫu và đám nô tỳ ngày trước mà có mặt, kiểu gì cũng sẽ giật mình vì sao nữ công tử nhà mình lại trở nên ngoan ngoãn như thế, có điều A Trữ chăm sóc Du Thái Linh đã nhiều ngày, chỉ cảm thấy cô là một đứa trẻ bản tính lương thiện, vì vậy cũng không lấy làm lạ.
Ba chiếc chén nhỏ sơn mài màu đỏ rượu được đặt trong một chiếc khay nhỏ bằng gỗ sơn mài cùng màu, trên thành bát có khắc mấy con quái thú kỳ lạ màu đen; chiếc chén lớn ở giữa đựng đầy cháo gạo thơm lừng, Du Thái Linh vừa ngửi đã biết ngay là món cháo nấm hầm xương bò mà mình yêu thích; trong chiếc chén nhỏ hơn bên cạnh đựng dưa muối ướp với muối biển và dấm chua, mặn mặn chua chua rất ngon miệng, là món sở trường của A Trữ; trong chiếc chiếc chén vuông bo tròn cạnh còn lại đựng hai miếng bánh sữa thơm nức mũi, chẳng biết đã cho bao nhiêu thìa đường. Du Thái Linh biết đường ở thời đại này rất hiếm, ở nông thôn mà có được hai miếng mạch nha là đủ khiến bọn trẻ thòm thèm nhỏ dãi.
Toàn là đồ mình thích ăn, Du Thái Linh vui vẻ ăn uống, A Trữ đứng bên mỉm cười nhìn cô, như thể nhìn nữ công tử ăn cũng đủ lấp đầy dạ dày của mình.
Trong lúc ăn Du Thái Linh lại hỏi đến chị em A Mai, A Trữ cười đáp: “Nhờ chủ mẫu mà sau này A Mai cũng sẽ đến hầu hạ nương tử, còn A Lượng không biết có được theo công tử nào không, có điều hai đứa nó ở quê nghịch ngợm quen rồi, giờ Thanh Thung phu nhân đang tìm người dạy quy củ cho chị em nó.” Sau đó lại giới thiệu hai tỳ nữ sau lưng.