Chương 4: Gần 2 triệu năm trong 15 đoạn văn ngắn

Đây là tóm tắt câu chuyện mà chúng tôi sẽ kể trong các trang sau: cách đây khoảng 1,9 triệu năm, tổ tiên cổ đại của chúng ta (Người đứng thẳng - Homo erectus) chuyển từ hệ thống giao phối giống như khỉ đột, ở đó con đực đầu đàn chiến đấu nhằm giành chiến thắng và duy trì một bầy đoàn thê tử, sang hệ thống trong đó hầu hết con đực đều được tiếp cận tìиɧ ɖu͙© với con cái. Rất ít, nếu có, chuyên gia nghi ngờ về bằng chứng hóa thạch cho thấy bước chuyển này.

Nhưng khi nhìn vào những biểu hiện của bước chuyển này, chúng tôi lại không tán thành những người ủng hộ mô tả chuẩn mực. Mô tả chuẩn mực cho rằng đây chính là thời điểm mối liên hệ kết đôi lâu dài bắt đầu trong giống loài chúng ta: nếu mỗi cá thể đực chỉ có thể có một bạn tình tại một thời điểm, hầu hết các cá thể đực đều có một bạn gái gọi là của mình. Thật ra, mặc dù vẫn còn tranh cãi về bản chất của hoạt động tính dục bẩm sinh của loài người, dường như chỉ có hai xu hướng chấp nhận được là loài người tiến hóa đến chế độ đơn thê (Đ-C) hoặc đa thê (Đ-CCC+)* - và thường sẽ đi đến kết luận là nhìn chung phụ nữ thích hình thức trước hơn trong khi đa số nam giới lại chọn hình thức sau.

* Đực-cái hoặc Đực-cái, cái, cái… (DG)

Thế còn việc kết đôi phức tạp thì sao, khi đa phần đàn ông và phụ nữ đều có nhiều hơn một mối quan hệ tìиɧ ɖu͙© đồng thời? Tại sao - ngoài ác cảm đạo đức - trạng thái hỗn tạp thời kỳ tiền sử lại không được xét đến, trong khi gần như nguồn bằng chứng liên quan nào cũng đều chỉ về hướng đó?

Chúng ta biết rằng xã hội hái lượm mà loài người đã tiến đến là những nhóm có quy mô nhỏ, cực kỳ tuân thủ chủ nghĩa bình quân, chia sẻ gần như tất cả mọi thứ. Chủ nghĩa bình quân triệt để vẫn còn được tìm thấy gần như ở khắp mọi nơi, trong các nhóm đang tồn tại được gọi là người hái lượm lập-tức-trao-đổi*. Trong cách sống của người hái lượm có sự nhất quán đáng kể - dù họ sống ở khu vực nào. Người Kung San ở Botswana, thổ dân ở Úc Châu, người Inuit trên vành đai Bắc Cực và các nhóm nhỏ sống trong những nơi xa xôi biệt lập trong rừng nhiệt đới Amazon, tất thảy đều sùng bái việc chia sẻ. Chia sẻ không những được khuyến khích mà còn mang tính bắt buộc. Ví dụ, tích trữ hoặc giấu thức ăn bị xem là hành vi vô cùng đáng xấu hổ, không thể tha thứ nổi trong những cộng đồng như vậy.

* Nhà nhân loại học James Woodburn (1981, 1998) chia xã hội hái lượm thành hai hệ thống: lập-tức-trao-đổi (đơn giản) và trì-hoãn-trao-đổi (phức tạp). Ở dạng đầu, thức ăn được tiêu thụ luôn trong hôm kiếm được, không xử lý cầu kỳ hay tích trữ. Nếu không có ghi chú ngược lại tức là chúng ta đang nói đến xã hội kiểu này.

Gần như tất cả cư dân người hái lượm đều chia phát thịt rất công bằng, cho con của nhau bú, có rất ít hoặc không có gì là riêng tư, họ phụ thuộc vào nhau để sinh tồn. Nếu thế giới xã giao của chúng ta xoay quanh các khái niệm về tài sản cá nhân và trách nhiệm cá nhân, thế giới của họ xoay theo hướng ngược lại, hướng đến phúc lợi nhóm, bản sắc nhóm, quan hệ cộng đồng sâu đậm và phụ thuộc lẫn nhau.

Mặc dù điều này nghe như chủ nghĩa lý tưởng Kỷ-Nguyên-Mới ngây thơ, tiếc nuối Thời đại Bảo Bình* đã mất, hoặc tán dương chủ nghĩa cộng sản, không một đặc trưng nào kể trên của xã hội tiền nông nghiệp được các học giả nghiêm túc tranh luận. Khắp nơi đều đồng thuận rằng tổ chức xã hội theo chủ nghĩa bình quân là hệ thống thực tế dành cho các xã hội hái lượm trong tất cả các môi trường. Thật ra, không một hệ thống nào khác có thể hữu dụng đối với xã hội hái lượm. Bắt buộc chia sẻ đơn thuần là cách tốt nhất để phân tán rủi ro vì lợi ích của mọi người: đó là bắt buộc tham gia. Thực dụng ư? Đúng vậy. Cao quý ư? Chẳng đúng lắm.

* Được cho là thời kỳ Mặt trời đi vào cung Bảo Bình. Bảo Bình ngày nay được gắn liền với “nhân bản” (humanity), với khoa học, kỹ thuật, với điện từ, với xã hội liên kết toàn cầu. (BTV)

Hành vi chia sẻ này cũng mở rộng sang cả tìиɧ ɖu͙©. Rất nhiều nghiên cứu của ngành linh trưởng học, nhân học, giải phẫu học và tâm lý học đều đưa tới một kết luận cơ bản: loài người và tổ tiên họ người của chúng ta đã mất khoảng 1,9 triệu năm sống thành từng nhóm nhỏ, thân mật, trong đó hầu hết người lớn đều có một vài mối quan hệ tìиɧ ɖu͙© tại bất kỳ thời điểm nào. Có đầy đủ lý do để cho rằng cách tiếp cận này đối với tìиɧ ɖu͙© tồn tại dai dẳng đến khi nông nghiệp và sở hữu cá nhân ra đời cách đây không quá 10.000 năm. Bên cạnh vô số bằng chứng khoa học, nhiều nhà thám hiểm, truyền giáo và nhân học cũng ủng hộ quan điểm này, sau khi ghi chép lại các trường hợp với nhiều vụ truy hoan bắt buộc, bình thản chia sẻ bạn tình và sinh hoạt tìиɧ ɖu͙© mở mà không thấy tội lỗi hay xấu hổ.

Nếu dành thời gian với những loài linh trưởng gần gũi nhất với loài người, bạn sẽ thấy tinh tinh cái giao phối hàng chục lần một ngày, với đa số hoặc toàn bộ những con đực sẵn sàng, còn hoạt động giao phối tập thể thoải mái ở tinh tinh lùn giúp cho mọi cá thể cảm thấy thoải mái và duy trì các mạng lưới xã hội phức tạp. Hãy tìm hiểu sự ham muốn của con người đương dại đối với các loại khiêu da^ʍ cụ thể hoặc những vướng mắc khét tiếng của chúng ta trong chế độ hôn nhân một vợ một chồng lâu dài, bạn sẽ nhanh chóng vấp phải các dấu tích của tổ tiên “dê cụ” của chúng ta.

Cơ thể chúng ta cũng giống hệt như vậy. Người nam có tinh hoàn lớn hơn nhiều so với bất cứ loài linh trưởng một vợ một chồng nào cần đến, treo hờ hững ngoài cơ thể để nhiệt độ mát hơn giúp bảo quản các tế bào tϊиɧ ŧяùиɠ chờ sẵn cho nhiều lần xuất tinh. Chàng cũng trưng ra chiếc dươиɠ ѵậŧ dài nhất, dày nhất từng tìm thấy trên bất cứ loài linh trưởng nào trên hành tinh này, đồng thời cũng thể hiện xu hướng lêи đỉиɦ nhanh đến mức đáng xấu hổ. Bộ ngực toòng teng của phụ nữ (hoàn toàn không cần thiết dành cho trẻ em đang thời kỳ bú sữa), tiếng kêu rên sung sướиɠ đến mức không thể phớt lờ của họ và năng lực lêи đỉиɦ hết lần này đến lần khác, tất cả đều cho thấy hình ảnh lang chạ thời tiền sử này. Mỗi điểm nói trên đều là một mấu chốt quan trọng trong mô tả chuẩn mực.

Theo mô tả chung, bước chuyển đổi vĩ đại sang nông nghiệp bắt đầu cách đây khoảng 10.000 năm không hẳn là một ân huệ đối với loài người. Rõ ràng là với đa số mọi người, chất lượng cuộc sống đã giảm xuống xét về phương diện chế độ ăn uống, thời gian rảnh rỗi, quan hệ xã hội và khả năng bị chết vì bạo lực. Nhà nhân học Steven Mithen cho biết: “Nguồn gốc của trồng trọt là sự kiện đặc biệt quan trọng của lịch sử nhân loại - bước ngoặt đưa con người hiện đại đến với một lối sống và nhận thức khác hẳn so với tất cả các loài động vật khác cũng như các mẫu người trước đó.”

Khi con người canh tác trên cùng một mảnh đất hết mùa này sang mùa khác, tư hữu nhanh chóng thay thế cho công hữu và trở thành phương thức hoạt động trong hầu hết các cộng đồng. Đối với người hái lượm du cư, tài sản cá nhân - bất cứ thứ gì cần mang theo - được giữ ở mức tối thiểu, vì những lý do rất rõ ràng. Người ta rất ít nghĩ tới việc ai sở hữu đất đai, hoặc cá dưới sông, hoặc mây trên trời. Đàn ông cùng nhau đối mặt với hiểm nguy. Khoản đầu tư làm bố của một cá thể nam, hay nói cách khác - nền tảng của mô tả chuẩn mực - có xu hướng lan truyền trong những cộng đồng như một cộng đồng mà từ đó chúng ta tiến hóa, chứ không trực tiếp hướng tới một phụ nữ cụ thể và con cái của cô ta, như mô hình hiện đại đòi hỏi.

Nhưng khi mọi người bắt đầu sống trong các cộng đồng nông nghiệp ổn định, thực tại xã hội biến chuyển sâu sắc và không thay đổi được. Đột nhiên người ta thấy ruộng nhà mình kết thúc ở đâu và ruộng hàng xóm bắt đầu ở đâu là cực kỳ quan trọng. Hãy nhớ đến Điều răn Thứ 10: “Ngươi không được ham muốn nhà cửa của hàng xóm, ngươi không được ham muốn vợ, đầy tớ, tì thϊếp, bò, lừa, hay bất cứ thứ gì của hàng xóm nhà ngươi.” Rõ ràng, kẻ thua thiệt nhiều nhất (ngoài nô ɭệ) trong cuộc cách mạng nông nghiệp là phụ nữ, từ chỗ giữ vị trí trung tâm, được kính trọng trong xã hội hái lượm, họ trở thành một loại tài sản khác của đàn ông để có thức ăn và được bảo vệ, cùng với nhà cửa, nô ɭệ và gia súc của anh ta.

Sự ra đời của nông nghiệp vẫn là điểm mấu chốt nhất trong câu chuyện về giống loài chúng ta. Nó làm thay đổi sự tồn tại của con người một cách cơ bản hơn so với việc kiểm soát lửa, Đại Hiến chương Magna Carta*, báo in, động cơ hơi nước, phản ứng phân hạch, hay bất cứ điều gì khác từng có, hoặc sẽ có. Với nông nghiệp, mọi thứ đều thay đổi: bản chất của vị trí xã hội và quyền lực, cấu trúc xã hội và gia đình, cách con người tương tác với thế giới tự nhiên hay với những vị thần mà họ thờ phụng, khả năng chiến tranh giữa các nhóm với nhau, chất lượng cuộc sống, tuổi thọ và chắc chắn là cả những quy luật chi phối hoạt động tìиɧ ɖu͙©. Khảo sát về các bằng chứng khảo cổ liên quan đã giúp Timothy Taylor kết luận rằng: “Trong khi tìиɧ ɖu͙© thời săn bắn-hái lượm được xây dựng trên ý tưởng chia sẻ và liên kết thì tìиɧ ɖu͙© thời nông nghiệp sơ khai mang tính tọc mạch, thô bạo, ghê sợ và kỳ thị đồng tính, tập trung vào sinh sản.” “Sợ hãi trước thế giới tự nhiên”, ông kết luận, “nông dân quyết định hủy hoại nó.”*

* Còn được gọi là Magna Carta Libertatum (“Đại Hiến chương về những quyền tự do”), là một văn kiện thời Trung cổ, được vua John của Anh chuẩn thuận ở Runnymede, gần Windsor vào 15/06/1215. Hiến chương cam kết bảo vệ quyền lợi của giáo hội, bảo vệ các quý tộc không bị bắt giam bất hợp pháp, được tiếp cận nhanh chóng với công lý và hạn chế các nghĩa vụ đóng góp cho hoàng gia. Năm 1297, Đại Hiến chương được thừa nhận là một phần của pháp luật thành văn tại Anh. (BTV)

* Taylor (1996), tr. 142-3.

Giờ thì đất đai đã có thể bị chiếm giữ, sở hữu, truyền từ đời này tới đời sau. Thực phẩm trước đây săn bắt và hái lượm được giờ phải gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, tích trữ, bảo vệ và mua bán. Người ta phải xây dựng và gia cố hàng rào, bờ tường, cũng như hệ thống tưới tiêu. Quân đội được lập ra và duy trì. Vì tư hữu mà lần đầu tiên trong lịch sử giống loài, vai trò làm cha cực kỳ được quan tâm.Ŧìиɦ ᗪu͙ƈ Thuở Hồng Hoang - Chương 4: Gần 2 triệu năm trong 15 đoạn văn ngắnNhưng mô tả chuẩn mực lại khẳng định rằng sự chắc chắn của vai trò làm cha vẫn luôn giữ vị trí hết sức quan trọng trong giống loài chúng ta, rằng gene di truyền ra lệnh cho chúng ta phải tổ chức đời sống tìиɧ ɖu͙© xung quanh nó. Vậy thì tại sao hồ sơ nhân học lại đầy những ví dụ cho thấy trong xã hội hái lượm (thậm chí cả một số xã hội gieo trồng nữa) tầm quan trọng của người cha sinh học, nếu có, lại rất ít? Vì vai trò làm cha không quan trọng nên đàn ông có xu hướng không quan tâm đến sự chung thủy về tìиɧ ɖu͙© của phụ nữ.

Nhưng trước khi đi sâu vào các ví dụ trong đời thực, hãy ghé thăm bán đảo Yucatán một lát.