Chương 21: Du͙© vọиɠ trên thiên đường (2)

Làʍ t̠ìиɦ LIÊN MIÊN (ROCK ‘N’ ROLL)

Nếu bạn từng hoài nghi rằng, con người, trên tất cả, là những động vật có tính xã hội, thì hãy suy ngẫm về những hành hình gϊếŧ chóc hay nhục hình, thứ hình phạt khủng khϊếp nhất trong bất cứ xã hội nào luôn là lưu đày. Vì thiếu chỗ để lưu đày những tù nhân kinh khủng nhất, nên chúng ta biến lưu đày thành hình phạt khắc nghiệt nhất: biệt giam. Sartre đẩy khái niệm này lùi lại với tuyên bố: “L’enfer, cest les autres” (Địa ngục là người khác). Thiếu vắng người khác chính là điều kinh khủng nhất đối với giống loài chúng ta. Con người cần giao tiếp xã hội đến mức nhìn chung gần như tất cả tù nhân đều chọn ở chung với kẻ cuồng sát còn hơn là bị biệt giam kéo dài. “Tôi thà có bạn tù tồi tệ nhất còn hơn là không có bạn tù nào”, nhà báo Terry Anderson hồi tưởng bảy năm thử thách làm con tin ở Lebanon của mình*.

Các nhà lý luận tiến hóa thích tìm lời giải thích cho những đặc điểm nổi bật nhất của các loài: gạc của nai sừng tấm, cổ của hươu cao cổ, tốc độ vượt trội của loài báo. Những đặc điểm này phản ánh môi trường tiến hóa của chúng, theo đó là nơi sống cụ thể của chúng trong đó.

Đâu là đặc điểm nổi bật của giống loài chúng ta? Ngoài việc đàn ông có dươиɠ ѵậŧ ngoại cỡ (xem Phần IV), chúng ta không có gì gây ấn tượng về mặt biểu hiện thể chất. Tuy chưa bằng một nửa trọng lượng cơ thể chúng ta, nhưng một con tinh tinh bình thường có sức mạnh bằng bốn đến năm chàng lính cứu hỏa để ria. Nhiều loài thú có khả năng chạy nhanh hơn, lặn sâu hơn, chiến đấu tốt hơn, nhìn xa hơn, phát hiện tinh nhạy các thứ mùi hơn và nghe thấy những âm thanh tinh tế mà chúng ta không hề nghe thấy được. Vậy chúng ta góp được gì cho bữa tiệc đây? Con người có gì mà đặc biệt đến thế? Phải chăng là do sự tương tác phức tạp không ngừng của con người với nhau?

Chúng tôi biết bạn đang nghĩ gì: bộ não lớn. Đúng vậy, nhưng bộ não độc đáo của chúng ta là kết quả của hoạt động trò chuyện giao tiếp. Dù còn tranh cãi về vấn đề tại sao não người lại to ra nhanh đến vậy, nhưng đa số mọi người đều đồng ý với nhà nhân học Terrence W. Deacon khi ông viết: “Não người hình thành nhờ các quá trình tiến hóa tạo ra những năng lực cần thiết đối với ngôn ngữ, chứ không chỉ là nhờ nhu cầu chung là thông minh hơn.”*

Trong vòng phản hồi đã trở thành cố định, bộ não to lớn của chúng ta phục vụ cả nhu cầu giao tiếp phức tạp, tinh tế lẫn kết quả của nhu cầu đó. Đến lượt mình, ngôn ngữ cho phép chức năng sâu xa nhất, con người nhất của chúng ta hoạt động: khả năng hình thành và duy trì mạng lưới xã hội linh hoạt, đa chiều và dễ thích nghi. Trước tiên và trên hết, Homo sapiens là sinh vật có khả năng giao tiếp bậc nhất.

Bên cạnh não bộ lớn đến mức thiếu cân xứng và kèm theo đó là năng lực ngôn ngữ, chúng ta còn có một phẩm chất khác cực kỳ con người. Có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên vì nó cũng được dệt vào tấm lưới xã hội vô cùng quan trọng của chúng ta: hoạt động tính dục theo cơ chế tua-bin tăng áp. Không một loài động vật nào trên thế giới dành nhiều thời gian cho tìиɧ ɖu͙© hơn Homo sapiens - kể cả loài tinh tinh lùn vốn nổi tiếng dâʍ ɖu͙©. Mặc dù trung bình trong đời cả chúng ta lẫn tinh tinh lùn đều say sưa tham gia hàng trăm, nếu không muốn nói hàng nghìn hành vi giao phối - vượt xa bất cứ loài linh trưởng nào - thì số lượng “hành vi” của chúng vẫn ít hơn hẳn chúng ta. Hầu hết các loài động vật kết đôi theo kiểu “một vợ một chồng” gần như luôn ít ham muốn, chỉ quan hệ như Vatican khuyến nghị: thưa thớt, lặng lẽ và chỉ phục vụ mục đích sinh sản. Bất kể là thành viên của tôn giáo nào, con người đều nằm ở đầu còn lại của phổ ham muốn: siêu dâʍ ɖu͙© điển hình.

Con người và tinh tinh lùn đều sử dụng sự dâʍ ɖu͙© làm niềm vui, thắt chặt tình giao hảo, chốt thương vụ (trong lịch sử, hôn nhân giống với sáp nhập doanh nghiệp hơn là lời tuyên bố mãi mãi yêu nhau). Đối với hai loài này (và có vẻ là chỉ có hai loài này mà thôi)* tìиɧ ɖu͙© không chỉ nhằm sinh sản là điều “tự nhiên”, một đặc thù mang tính xác định.

Liệu tất cả những thứ tìиɧ ɖu͙© phù phiếm này có khiến chúng ta mang “thú tính”? Không nên nghĩ vậy. Thế giới động vật đầy những loài chỉ quan hệ tìиɧ ɖu͙© trong những chu kỳ dài khi con cái đang rụng trứng. Chỉ có hai loài thực hiện được điều này hết tuần này sang tuần khác mà không phải vì mục đích sinh sản: một là con người và hai là một loài rất giống người. Vì vậy, tìиɧ ɖu͙© nhằm thư giãn với nhiều đối tác mang tính “người” nhiều hơn là con. Thứ tìиɧ ɖu͙© thiên về mục đích sinh sản lại vốn mang tính “con” nhiều hơn là người.

Tuy nhiều người đã cố gắng giấu đi da^ʍ tính của bản thân, nhưng vì là một thế lực tự nhiên nên nó vẫn cứ lồ lộ ra ngoài. Rất nhiều người Mỹ đứng đắn, chuẩn mực thấy chướng tai gai mắt với cách Elvis lắc hông khi hát. Khi anh hát “rock and roll” bao nhiêu người nhận ra cụm từ rock and roll nghĩa là gì? Nhà sử học văn hóa Michael Ventura trong lúc nghiên cứu nguồn gốc của âm nhạc Mỹ gốc Phi đã phát hiện rằng rock "n" roll bắt nguồn từ các điểm giải trí ở miền Nam. Ventura cho chúng tôi biết, cụm từ này “đã được sử dụng từ rất lâu trước thời của Elvis, nó vốn không phải là tên một loại hình âm nhạc mà có nghĩa là "làʍ t̠ìиɦ". Bản thân từ "rock" đã có nghĩa như thế, trong giới ăn chơi ở đó, ít ra là từ những năm 1920”. Đến giữa những năm 1950, khi cụm từ này được sử dụng rộng rãi trong văn hóa chính thống, Ventura nói rằng những DJ (người lựa chọn và phát những thể loại âm nhạc) “hoặc là không biết mình đang nói gì hoặc quá ranh ma nên không công nhận điều mình biết”.

Mặc dù cụ Ed Sullivan gắt gỏng sẽ rất khó chịu nếu biết ý nghĩa của điều mình đang nói lúc tuyên bố rằng thứ “rock ‘n" roll” mới này khiến lũ trẻ đứa nào cũng phát cuồng”, những ví dụ liên quan đến tìиɧ ɖu͙© ít được tiết lộ nằm bên dưới tiếng Anh-Mỹ không chỉ có thế. Robert Farris Thompson, nhà nghiên cứu lịch sử nghệ thuật châu Phi xuất sắc nhất nước Mỹ, nói rằng funky (sôi nổi) bắt nguồn từ lu-fuki trong tiếng Ki-Kongo, nghĩa là “mùi cơ thể mạnh”. Mojo tiếng Ki-Kongo nghĩa là “truyền cảm hứng”. Boogie phát sinh từ mbugi, nghĩa là “tuyệt vời”. Và cả jazz lẫn jism đều bắt nguồn từ dinza, tiếng Ki-Kongo nghĩa là “xuất tinh”.*. Cuốn sách không được xuất bản nữa, nhưng bạn có thể xem bài luận này và các bài viết khác tại trang web của Ventura: https://www. michaelventura.org/. Tài liệu của Thompson có thể tìm thấy cả trong bài luận của Ventura lẫn ở Thompson (1984).]

Hãy quên đi ngành khiêu da^ʍ trị giá hàng trăm tỉ đô-la. Hãy quên đi cái đám mông và ngực trên ti vi, trong quảng cáo và phim ảnh. Hãy quên đi những bản tình ca chúng ta hát trên đường đi vào các mối quan hệ tình ái và những bản blue trên đường đi ra. Ngay cả khi chúng ta không tính đến bất cứ một yếu tố nào trong đó, thì tỉ lệ những gì đời sống con người mà chúng ta nghĩ tới, dự định, thực hiện và hồi tưởng về tìиɧ ɖu͙© vẫn lớn hơn rất nhiều so với bất cứ sinh vật nào trên thế giới. Dù tiềm năng sinh sản tương đối thấp (rất ít phụ nữ có trên mười đứa con), nhưng Homo sapiens có thể, và thực tế vẫn đang làʍ t̠ìиɦ suốt ngày đêm.
Nếu được chọn nơi sinh của mình, tôi sẽ chọn một nhà nước nơi mọi người đều biết nhau, để những âm mưu đồϊ ҍạϊ hay sự khiêm nhường của đức hạnh đều không thể thoát khỏi sự săm soi và phán xét của công chúng.

• JEAN-JACQUES ROUSSEAU (1712-1778)

Rousseau đã sinh nhầm thời, nhầm chỗ. Nếu được sinh ra tại chính đất nước của mình sớm hơn 20.000 năm, cùng thời với những họa sĩ phác thảo lũ bò to bằng kích thước thực tế trên vách các hang động ở châu Âu, ông đã biết hết mọi thành viên trong thế giới xã hội của mình.

Bên cạnh đó, nếu sinh ra ngay trong kỷ nguyên của mình nhưng lại thuộc về một trong rất nhiều xã hội chưa có nền nông nghiệp, hẳn ông đã tìm được thế giới cộng đồng gắn bó mà ông vẫn mong mỏi. Cảm giác cô độc - ngay cả trong một thành phố đông đúc - là điều kỳ quặc trong đời sống con người, giống như rất nhiều điều khác, xuất hiện như một phần của gói hàng nông nghiệp.

Nhìn lại thế giới đông nghịt của mình, Thomas Hobbes tưởng tượng rằng đời sống của con người tiền sử cô độc đến mức không thể chịu nổi. Ngày nay, tách biệt khỏi vô số người lạ chỉ nhờ những bức tường mỏng, những chiếc tai nghe bé xíu và những lịch trình bận rộn, chúng ta giả định về cảm giác lẻ loi của sự cô độc chắc hẳn đã đè nặng lên tổ tiên chúng ta, rồi nghĩ lan man về cảnh quan lộng gió thời tiền sử của họ. Nhưng trên thực tế, giả định về cảm giác có vẻ rất bình thường này lại cực kỳ sai lầm.

Đặc trưng đời sống xã hội của người hái lượm là chiều sâu và sức mạnh tương tác xã hội mà ít người trong chúng ta hình dung (hoặc thông cảm) được. Với những ai sinh ra và lớn lên trong xã hội được tổ chức bằng những nguyên tắc liên đới chặt chẽ với nhau của từng cá nhân, không gian cá nhân và tài sản cá nhân, thật khó mà hình dung được về các xã hội kết nối chặt chẽ đó, nơi gần như tất cả mọi không gian và tài sản đều thuộc về cộng đồng, và bản sắc mang tính tập thể hơn là cá nhân. Ngay từ buổi sáng đầu tiên khi sinh ra đến tiếng khóc than cuối cùng lúc tạ thế, cuộc sống của người hái lượm là cuộc sống tương tác mạnh mẽ, liên tục, tương quan và phụ thuộc lẫn nhau.

Trong phần tiếp theo, chúng tôi sẽ kiểm tra yếu tố đầu tiên trong tuyên bố nổi tiếng của Hobbes về đời sống của người tiền sử. Trước khi nhà nước ra đời, chúng tôi sẽ chứng minh rằng đời sống của người tiền sử không hề “cô độc” chút nào.